Các bài suy niệm Chúa Nhật XXIII (23) Thường Niên B


1. SỐNG HOÀN THIỆN MÌNH THEO ÂN SỦNG CHÚA BAN

2. MỞ TAI ĐÓN NGHE LỜI CHÚA ĐỂ MỞ LÒNG CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG

3. CHÚA GIÊSU- ĐẤNG CỨU CHỮA HỒN XÁC

4. HÃY MỞ RA!

5. CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN.

6. CHÚA GIÊSU CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC

7. THÍCH ĐIẾC, MUỐN NGỌNG

8. NIỀM VUI NƯỚC THIÊN CHÚA

9. HÃY MỞ RA

10. VÌ KHÔNG BIẾT NGHE

11. CHÚA CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC

12. ĐỨC GIÊSU- DẤU CHỈ THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN

13. EPHATA! HÃY MỞ RA

14. EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA, VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC

15. EPHATA: HÃY MỞ RA

16. CÂM ĐIẾC TINH THẦN

17. CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG

18. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

19. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

20. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

21. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

22. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

23. HÃY MỞ RA

1. SỐNG HOÀN THIỆN MÌNH THEO ÂN SỦNG CHÚA BAN

Mc 7, 31- 37

Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm vừa điếc. Câm là không nói được. Điếc là không nghe được. Như vậy, người vừa câm vừa điếc thì không còn khả năng để sống chung với người khác, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu đối với họ. Và người câm điếc sống trong gia đình nào, thì họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình đó. Do đó, hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc thể  hiện lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.

Khi chữa lành người bị tật, Chúa Giêsu không chỉ nhắm đến sự chữa lành để bày tỏ lòng yêu thương mà thôi chứng tỏ mình là Đấng Thiên Sai, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ, hay trong chính bài tường thuật hôm nay, từ ngữ mà thánh Marcô sử dụng: "mở ra," "hết buộc lại," cho thấy Chúa Giêsu không chỉ chữa lành những gì thuộc thể lý, nhưng Ngài còn chứng tỏ Ngài có quyền cầm buộc và tháo cởi vận mạng đời đời của nhân loại.

Phép lạ chữa lành này cho tôi nhận ra mình, dù mắt tôi vẫn xem thấy, tai tôi vẫn nghe, lưỡi tôi rất bình thường nhưng tôi vẫn bị câm, bị điếc trước rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh vực. Có những thứ câm và điếc đáng sợ. Càng tệ hại hơn khi chính tôi bịt tai, ngậm miệng để tự mình trở nên kẻ câm và điếc. Đó là nỗi câm điếc của khi tôi không biết yêu mến, học hỏi và cố gắng sống Lời Chúa. Thiên Chúa là viễn vong, chỉ có những gì cảm nhận bằng giác quan, những gì thuộc thế giới thực nghiệm mới xác thực. Hay khi tôi câm điếc không biết yêu thương anh em đồng loại, ngược lại chỉ sống ích kỷ cho riêng bản thân, làm mọi cách để tiến thân trong cuộc đời, miên man trong sự ham hố tiền của, và danh vọng.

Vì thế, nỗi câm điếc chính là thái độ cố tâm ở lỳ trong tội, cố tâm ở lỳ trong nỗi chết của linh hồn. Do đó dù điếc câm thể xác, hay tinh thần đều có thể coi là bất hạnh. Nhưng nỗi câm điếc của linh hồn không chỉ bất hạnh, mà còn gây nguy hiểm. Cái câm, cái điếc ấy nguy hiểm vì nó cản lối tôi hướng về linh thánh, hướng về Thiên Chúa, Đấng là cội là nguồn của tôi, cản lối hướng về ơn cứu độ mà Người rộng ban cho tôi. Nguy hiểm vì lòng tôi thiếu ơn thánh, Thiên Chúa trở thành xa lạ, linh hồn tôi nên chốn hoang tàn và là môi trường xấu làm phát sinh nhiều dịch bệnh: cứng cỏi, kiêu căng, gian tham, ganh tị, ngông cuồng... Quả là nguy hiểm không cùng, nhưng sự điếc câm của linh hồn không phải là vô phương chữa trị. Chỉ cần chúng ta để lòng mình được mềm đi và đừng cứng cỏi nữa, ta sẽ dễ dàng nhận ra con người thật của mình, biết bao gai góc cần gọt giũa; thói xấu cần chữa trị; tư tưởng không lành mạnh, hành động sai quấy cần loại bỏ. Biết khiêm nhu để nhận ra như thế là bước đầu tiên để từ đó, ta có thể phá bỏ dần tình trạng điếc câm của linh hồn mình. Và chính khi biết mình như thế, ta sẽ để Chúa chạm đến bản thân ta, chạm đến cuộc đời ta.  Như vậy, có nhiều bức tường ngăn chặn làm cho lỗ tai ta bị điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho miệng của ta trở nên câm nín.

Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa Thánh Thần mở mắt, lưỡi để chúng ta có thê sống hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, chúng ta cũng thường điếc khi Chúa nói với chúng ta qua các biến cố hằng ngày. Do kiêu căng, ích kỷ, tôi lỗi đã bịt tai, cột lưỡi chúng ta không cho chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với mỗi người chúng ta: "Hãy mở ra!". Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời tha nhân để san sẻ, giúp đỡ họ. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa và đón nhận tha nhân.

Hãy mở miệng ra để nói được những lời yêu thương với tha nhân và với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của mọi tha nhân, mạnh dạn nói những lời sự thật, nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa. Hãy đến với Chúa, thực tâm tôn thờ Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy vâng nghe Lời Chúa dạy và mau mau thực hành Lời của Người trong suốt cuộc đời mình... Chắc chắn khi ta đến với Chúa bằng một tấm lòng chân thành, Chúa sẽ chạm đến linh hồn ta, Ngài sẽ biến đổi chúng ta và ta sẽ sớm lành mạnh. Chúng ta sẽ cảm nhận được những điều kỳ diệu của Chúa "Ngài làm những điều tốt đẹp". Ngài chính là Đấng Thiên Sai, Ngài đến để giải thoát và cứu chữa chúng nhân.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh câm trong tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết sống yêu thương tha nhân bằng thái độ tích cực, biết rao giảng Lời Chúa, biết lắng nghe nỗi thống khổ của anh chị em đồng loại và chân thành đi đến với tha nhân bằng tình thương Chúa dành cho chúng con. Amen.

 2. MỞ TAI ĐÓN NGHE LỜI CHÚA ĐỂ MỞ LÒNG CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG

Mc 7,31-37

1. LỜI CHÚA: Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: "Hãy mỡ ra!" Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7,34).

2. CÂU CHUYỆN: KIẾN THỨC UYÊN BÁC DO ĐÂU ?

Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hóa mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh vực như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết lý và thần học... Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng ngày càng lan đi xa và nhiều người đã đến viếng thăm ông để xin giải đáp thắc mắc và hỏi ý kiến về các vấn đề cuộc sống. Họ đã được ông tận tình giải đáp và cho ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học cũng đến thăm. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư kia đã hỏi ông cụ nguyên nhân khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy, đồng thời xin ông giới thiệu một số cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ: Ông cụ đã trả lời như sau: "Thưa ngài, thực sự tôi chẳng có thì giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học... Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người. Cuốn sách thứ hai là những việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Kinh Thánh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành hằng ngày. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế".

3. SUY NIỆM:

+ Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta: Đúng như ông lão có kiến thức uyên bác trong câu chuyện trên đã nói: "Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những điều kỳ diệu ấy". Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do đã không biết mở mắt để nhìn xem, mở tai để lắng nghe, mở lòng để đón nhận, mở trí khôn để khám phá và thi hành theo thánh ý Chúa.

"Ép-pha-ta": Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết mở mắt tâm hồn bằng cách mở tai mở lòng, mở trí để đón nhận Lời Chúa và tích cực chia sẻ tình người với tha nhân.

+ Xin Chúa mở miệng lưỡi chúng ta: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã chữa một người vừa ngọng (câm), vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi không thể diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, giống như bị một sợi dây vô hình trói buộc miệng lưỡi, làm cho họ không nói ra được điều muốn nói. Nhiều người thiếu sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay đành nín thinh, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác miệt thị khinh thường... Ngòai ra còn có những mối đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói ra suy nghĩ trung thực của mình.

"Ép-pha-tha": Xin Chúa mở miệng chúng con, để sẵn sàng làm chứng cho chân lý, giới thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ do tai nạn, do bị ngược đãi bất công, hay phải chịu đựng những điều trái ý cực lòng.

+ Xin Chúa mở đôi tai chúng ta: Người điếc hoặc bị lãng tai do không nghe được những lời kẻ khác. Lắng nghe là điều tối quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ lắng nghe điều mình muốn nghe, hoặc dù có nghe người khác nói nhưng lại chỉ hiểu theo ý rịêng chủ quan của mình. Vì thế gây ra hiểu lầm tranh cãi mất tình đoàn kết nội bộ. Nghe bằng tai chưa đủ, chúng ta còn cần nghe bằng trái tim. Chỉ khi biết nghe bằng trái tim yêu thương, chúng ta mới hiểu đúng và hiểu đủ ý nghĩa chứa đựng trong lớp vỏ ngôn từ bên ngoài.

"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở đôi tai chúng con để lắng nghe, hiểu biết và cảm thông với những nỗi đau của tha nhân và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ với hết khả năng cùa mình.

+ Xin Chúa mở lòng trí chúng ta: Thế giới hôm nay đang thiếu cảm thông và đối thoại, vì quá nhiều người đang bị câm điếc tinh thần, khiến họ trở thành một hòn đảo giữa đại dương nhân lọai bao la. Bệnh câm điếc tinh thần cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, sống khép kín vì tâm hồn hóa thành sơ cứng khi không trao tặng cho ai cái gì và cũng không muốn đón nhận của ai điều gì. Cuối cùng con người sẽ chết trong nghèo nàn về hiểu biết và tình thương.

"Ép-pha-tha": Xin Chúa hãy mở tai mở miệng và mở lòng, để chúng con dễ dàng giao lưu với Chúa và với tha nhân, để được biến đổi nên người mới sống có tình người hơn. Nhờ đó, chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội trở nên thiên đàng tình thương đúng theo ý Chúa muốn.

4. THẢO LUẬN: 1)Mỗi tín hữu chúng ta có thể phá bỏ bức tường ngăn cách giữa mình với tha nhân bằng những việc làm cụ thể nào? 2)Tuần này bạn sẽ làm gì để mở lòng đón nghe Lời Chúa, khám phá ra ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng? Bạn phài mở rộng trái tim như thế nào để nghe được những tâm tư của kẻ bất hạnh và sẵn sàng đáp úng nhu cầu của họ? Bạn sẽ làm gì để những anh em lương dân mở lòng đón nhận niềm vui ơn cứu độ?

5. CẦU NGUYỆN:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. "Ép-pha-tha!", Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở thành tay chân cho người tàn tật, trở thành đôi mắt cho kẻ đui mù. Để con biến thành tai nghe cho những người bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho nhưng kẻ ngọng câm. Để con trở thành tiếng kêu cho những ai bị áp bức... Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái giữa đời thường: Sẵn sàng mở hầu bao chia sẻ cơm bánh vật chất cho kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho người ốm đau, chia sẻ áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, đem lại chỗ trú thân cho những kẻ không nhà... Nhất là để con chia sẻ tình thương bao dung của Chúa để tha thứ hòa giải với những kẻ đang thù ghét và làm hại con.

X. Hiệp cùng Mẹ Maria

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

LM ĐAN VINH     www.hiephoithanhmau.com

3. CHÚA GIÊSU- ĐẤNG CỨU CHỮA HỒN XÁC

Mc 7, 31- 37

Một trong những khác biệt cơ bản của loài người so với những sinh vật khác là khả năng nghe hiểu và diễn đạt ý tưởng bằng lời nói. Ai mất hai chức năng này thì thường sống cô đơn vì khó giao tiếp được với cộng đoàn xã hội. Người câm điếc được nhắc đến trong Tin mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ đó, có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng thương này. Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).

Những gì Isaia loan báo mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người, cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại... và hơn xa mức con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc loài người khỏi khổ đau đời đời.

Tuy nhiên, có lẽ chúng ta lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao phép lạ này.

Một số ý kiến cho rằng:

Lý do thứ nhất có lẽ là vì Chúa Giêsu biết dân chúng chưa thể hiểu được vai trò cao cả của Người. Do đó, chưa phải lúc cho họ chứng kiến và cao rao phép lạ này kẻo họ đến với Người vì phần xác hơn phần hồn, trong khi mục đích của Chúa Giêsu là nhắm chữa lành cả con người, nhất là phần linh hồn. Thực sự thì Người thương chúng ta cả hồn lẫn xác, không muốn chúng ta phải đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng rất hiểu những nỗi đau khổ của loài người và đứng trước cuộc tử nạn Ngài cũng đã cầu nguyện với Chúa Cha : lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng Con sẵn sàng theo ý Cha đón nhận khổ hình thập giá. Và chúng ta ai cũng biết rằng: thân phận con người đời tạm này không thể thoát được mọi đau khổ và cái chết. Đó là quy luật của kiếp người, chạy trời cũng không khỏi nắng. Chúa Giêsu khi mang lấy thân phận xác phàm để cứu chuộc chúng ta chắc Người cũng biết mình sẽ phải qua đau khổ và cái chết để nói cho chúng ta biết sự thật: do tội nguyện tổ mà con người phải đau khổ và phải chết. Nếu Chúa Giêsu có chữa lành đau khổ bệnh tật hay cho kẻ chết sống lại cũng chỉ là tạm thời để xoa dịu nỗi đau và để tỏ mình là Đấng Messia cho nhân loại được ơn cứu rỗi, chứ không nhằm giải thoát mọi người khỏi mọi đau khổ đời này. Điều Chúa muốn con người là : tin vào ngài để được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đời đời. Tuy con người phải trải qua đau khổ và cái chết nhưng ai tin vào Chúa Con sẽ sẽ được hạnh phúc trường cửu, bất diệt bên Chúa Cha. Đó là điều Chúa Giêsu chuẩn bị cho tất cả chúng ta. Như vậy, Chúa không muốn người ta đến với Chúa chỉ vì mục đích được chữa lành thể xác mà thôi. Chúa muốn họ biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành để được chữa lành phần linh hồn, để được hạnh phúc bền vững muôn đời trong nhà Chúa.

Lý do thứ hai, có lẽ là tác giả muốn nhấn mạnh việc người ta hăng hái loan truyền Tin Mừng về việc Chúa Giêsu cứu chữa loài người, các tác giả Tin mừng khuyến khích kitô hữu hãy mạnh dạn loan Tin mừng cho người xung quanh. Bởi vì chính những người Do thái xưa kia dù Chúa Giêsu cấm loan báo mà họ cũng không nín lặng được vì lòng quá tràn đầy niềm vui. Huống chi bây giờ Chúa dặn cao rao Tin mừng thì mình càng phải hăng say loan báo hơn nữa cho mọi người. Mình gọi là Tin mừng, là Lời đem lại hạnh phúc thì tại sao mình chưa nói cho anh chị em mình biết để cùng chung niềm vui lớn lao đó.

Mỗi người chúng ta đều được Chúa cho hưởng phép lạ. Đó là trong Bí tích giải tội, mọi tội lỗi của chúng ta qua lời xá giải của linh mục thì liền được tha thứ, hay trong thánh lễ, mỗi khi linh mục đọc Lời Truyền Phép, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu làm của ăn nuôi linh hồn ta. Những điều đó chúng ta tin và chứng kiến hàng ngày, chúng ta có loan truyền những dấu lạ đó bằng niềm vui sống đạo hay chưa. Nếu chúng ta được ban ơn trong các Bí tích thì chúng ta hãy sống thế nào để người khác nhận ra ơn Chúa nơi chúng ta. Xem ra chúng ta chưa tỏ rõ thái độ vui mừng, phấn khởi trước tình thương diệu kỳ của thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, người câm điếc còn biết cao rao danh Chúa cho mọi người, còn chúng con vốn được Chúa ban cho khả năng nghe nói biết bao năm qua, xin cho chúng con biết hăng hái cao rao danh Chúa cho mọi người để mai sau được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Amen

4. HÃY MỞ RA!

Mc 7, 31-37

"Thiên Chúa, Đấng mở đường" là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng trung thành và giàu lòng thương xót. Còn Israel, dù là tuyển dân được Thiên Chúa ưu ái và săn sóc như "gà mẹ ấp ủ con dưới cánh", nhưng họ luôn thay lòng đổi dạ, bất trung, bất tín trước nhiều biến cố của đời sống và trong nhiều giai đoạn của lịch sử.

Trước những lầm lạc của dân Do thái, Thiên Chúa luôn tìm cách sửa dạy. Ngài gửi nhiều tiên tri đến cảnh báo và thức tỉnh họ. Và khi họ đã nhận ra sai lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi thì Ngài lại rộng lòng thứ tha. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết cho Dân của Ngài hay cho bất cứ con người nào. Trái lại, Ngài luôn thứ tha bằng cách mở ra nhiều con đường cho con người tiến bước. Đối với Thiên Chúa, khi Ngài đóng một cánh của nào đó lại thì Ngài lại mở ra nhiều cánh của khác. Lịch sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều đó.

Bài đọc một trích Sách tiên tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Ngài cũng cho những người đui mù, tàn tật, câm điếc . . . được trở lại bình thường. Nói cách khác, Thiên Chúa đã "mở đường" cho họ. Đó là con đường dẫn đưa họ về với cuộc sống bình thường, giúp họ hoà nhịp được với cuộc sống của con người.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rất rõ hình ảnh của Chúa Giêsu là "Đấng mở đường" đích thực. Ngài đã "mở tai và mở miệng" cho một người bị bệnh câm, ngọng từ lúc bẩm sinh, một điều vượt quá sức tưởng tượng và suy nghĩ của con người. Nhìn thấy anh bệnh nhân "vừa điếc vừa ngọng" từ lúc mới lọt lòng mẹ, chắc có nhiều người thất vọng lắm, vì ai có thể chữa trị cho anh bây giờ!

Theo thói thường, khi đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.

Có một chuyện kể rằng: Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là giết chết mình.

Chỉ một tháng sau là đầu của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt, và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:

"Ngày kết thúc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc sống mình trên trần gian này".

Ông đưa tay cầm khẩu súng lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và nói:
- Khoan đã, đừng kết liễu đời mình như thế!
Ông thưa với thiên thần:
- Nhưng tôi đã thề là sẽ kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên thần đáp lại:
- Nhưng Thiên Chúa thì không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở ra xem đi.

Las Dasir vội mở món quà Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa.

Câu chuyện trên đây cho chúng ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi nữa! "Epphatha- Hãy mở ra" là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân. Amen.

5. CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN.

Mc. 7, 31 - 37.

Anh chị em thân mến.
Có lần đi trên chiếc xe đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghĩ. Khi xe vừa dừng lại, thì có nhiều người chạy đến bên xe chào mời đủ thứ món hàng. Có một người chậm chạp hơn, nhưng rồi cũng đến bên xe. Anh ta không chào mời món hàng nào, nhưng anh ta cầm nơi tay một chiếc nón đã cũ. Không phải anh ta bán nón, nhưng anh ta dùng chiếc nón để xin những người trên xe, nếu có lòng hảo tâm thì cho một chút ít tiền vào chiếc nón cũ đó. Anh đi từ đầu đến cuối xe, rồi sang bên kia cũng thế. Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi suy nghĩ : dường như những người ngồi trên xe không nhìn thấy, không nghe được những lời van xin, nên họ cũng không có một lời nào với người hành khất. Không phải những người trên xe không sáng mắt, nhưng trong tường hợp này họ không nhìn thấy. Không phải họ bị câm điếc, nhưng trong trường hợp nầy họ không nghe, cũng không nói được lời nào.

Chúng ta vừa chứng kiến một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào tai và lưỡi anh. Người còn bảo: "Hãy mở ra" Lập tức lưỡi và tai anh được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.

Ngày hôm nay, còn biết bao nhiêu người câm điếc, nhưng họ đành bó tay. Trái lại, có những người, tai vẫn mở, nhưng không nghe gì hết, miệng vẫn mở, vẫn nói rất nhiều, nhưng họ không nói được gì hết. Đó là vì những người đó không nghe được những lời nói với họ khi cần thiết, họ cũng không nói được những lời tốt đẹp với những người chung quanh, họ chỉ biết nói lời khiến người khác phải đau khổ, khó chịu.

Mỗi người trong chúng ta nhìn lại mình xem, hiện giờ mình đang nghe, hay không nghe gì. Còn môi miệng chúng ta đang mở và luôn phát ra âm thanh, nhưng những âm thanh đó có phải là những lời nói thật sự, hay chỉ là những âm thanh rỗng tuết, hay là những âm thanh mà bao nhiêu người nghe phải bịt tai của họ lại và chạy trốn chúng ta.

Biết bao lần, chúng ta đã để cho những tiếng động của cuộc sống vật chất, những tiếng động của những lời nói êm tai, những lời nịnh hót, tiếng động của lời nói chìu theo sở thích, ý muốn của mình, những tiếng động đó làm ù tai khiến chúng ta không còn nghe được gì nữa hết. Còn những tiếng động của những đồng tiền, qua công việc làm ăn, tiếng động của những bước chân vươn lên cách bất chính và chà đạp kẻ khác. Ngoài ra, âm thanh của những trận cười mãn nguyện, những lời nói say sưa trong chiến thắng, khi thấy người khác thất bại. Tất cả những tiếng động đó, đã làm cho chúng ta trở thành những người điếc. Mặc dù vẫn nghe, nhưng không nghe được những gì Chúa muốn nói qua công việc hằng ngày, qua những người chung quanh. Chính vì không nghe nên chúng ta cũng trở thành một người câm, vì lưỡi đã bị trói buộc bởi lợi nhuận của cuộc sống, bởi danh dự trần gian nầy. Đó là những lúc chúng ta không dám nói sự thật, khi sự thật đó làm cho chúng ta mất đi một chút lợi nhuận nào đó, có thể về tiền bạc, hay về danh dự, hoặc địa vị trong xã hội. Đó là vì sự ích kỷ đã trói buộc con người, trói buộc miệng lưỡi không cho chúng ta nói. Còn những lúc nóng giận, đưa đến sự ngoan cố, thay vì những lời nói tốt đẹp, chúng ta lại thốt ra những lời chua cay gắt gõng. Chính sự ngoan cố trói buộc miệng lưỡi.

Có những lần Chúa Giêsu muốn tách rời chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những tiếng ồn ào đó, khỏi những trói buộc đó để Ngài chữa cho chúng ta khỏi chứng câm điếc. Chính những lúc trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe và sống thật với những gì mình nghe. Những lúc chúng ta biết nói những lời tốt đẹp, yêu thương từ con tim chân thành, nói những lời động viên an ủi, nói những lời chân thật. Đó là những lúc chúng ta đã để cho Ngài dẫn đi, tách rời khỏi đám đông và phán: "Hãy mở ra".

Lạy Chúa, xin mở tai con để biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin mở miệng con để con biết nói những lời yêu thương chân thật với anh em.

6. CHÚA GIÊSU CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC

Mc 7, 31-37

Thế giới bình thường là thế giới của những con người bình thường. Tuy nhiên, trong thế giới muôn thời không phải tất cả mọi người đều bình thường mà lại có những người mù, người câm, người điếc, người què, người tàn tật ... Đúng là một thế giới muôn mầu muôn sắc. Thời Chúa Giêsu sống cũng vậy, người ta nhận thấy có biết bao người bệnh hoạn, tật nguyền. Hôm nay, Tin Mừng của thánh Máccô 7, 31-37 thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc. Phép lạ này là một trong nhiều phép lạ Chúa đã thực hiện trong ba năm Ngài đi rao giảng khắp nơi...

Đối diện với những người câm điếc, chúng ta như được đặt giữa hai thế giới khác nhau bởi vì chúng ta nói họ không hiểu và họ diễn tả chúng ta cũng chẳng hiểu được.Bài Tin Mừng của thánh Máccô cho hay Chúa đụng đến lưỡi của người câm và lưỡi người câm được tháo cởi. Người câm cảm thấy hạnh phúc vô bờ vì được Chúa chữa lành. Vâng, lần đầu tiên trong cuộc đời người câm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống, của đời người. Và như thế, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại chữa lành người câm điếc. Tại sao Chúa khai thông lỗ tai của người câm điếc ? Tại sao Chúa Giêsu lại phục hồi miệng lưỡi người câm điếc ? Chúa Giêsu đã chứng tỏ lời ngôn sứ Isaia 35,4-7 được thực hiện nơi Ngài: " Kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được ...". Chữa lành người câm điếc như trong Tin Mừng hôm nay trình bầy, Chúa Giêsu đã thực hiện được hai dấu chỉ quan trọng. Ngài xác nhận Ngài là Đấng Mêsia muôn dân hằng trông đợi. Việc chữa lành của Đức Kitô hôm nay còn chứng tỏ Ngài là Đấng giầu lòng thương xót.

Người câm điếc Chúa Giêsu chữa lành, một cách nào đó cũng là hình ảnh của nhiều trong chúng ta. Bởi vì, chúng ta không bị câm ngọng điếc về mặt thể lý, nhưng bị câm điếc về mặt thiêng liêng. Đã có biết bao người trở nên, ngọng nghịu, điếc lác về mặt tâm linh. Họ không tha thiết cầu nguyện và ngại ngùng đến với Thiên Chúa. Họ cảm thấy khó khăn tâm sự, đối thoại với Chúa và cũng cảm thấy khó khăn trong việc để lắng nghe Chúa nói với họ. Trong trường hợp này chúng ta phải làm gì đây ? Thưa chúng ta đã có sẵn lời đáp trong bài Tin Mừng: hãy bắt chước người câm điếc trong bài Tin Mừng của thánh Máccô, hãy đi tìm kiếm Đức Kitô, hãy cùng Ngài ra khỏi đám đông và hạnh phúc ở bên Đấng có đầy uy quyền trên sinh mạng của mọi người. Hãy để Chúa mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, hãy để Ngài khai thông đôi tai điếc lác nặng nề của chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy nói chuyện, hãy đối thoại với Ngài, nghĩa là chúng ta phải siêng năng cầu nguyện để Chúa thực hiện nơi chúng ta điều Chúa đã làm cho người câm điếc. Chúng ta hãy để Chúa chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng của chúng ta.

Êphata, hãy mở ra. Xin Chúa chữa lành bệnh câm của chúng con để chúng con có thể truyền đạt, nói chuyện với nhau và đặc biệt tâm sự, cầu nguyện với Chúa. Xin Chúa chữa lành đôi tai nặng, điếc của chúng con để chúng lắng nghe được tiếng Chúa nói và nghe được tiếng nói của anh em chúng con. Sống trong cuôc sống, thực tế, chẳng ai muốn ngọng,câm điếc. Nhưng lại nhiều khi chúng ta bị câm khi không muốn trao đổi với anh em xung quanh. Chúng ta bị điếc, bị lãng tai không muốn nghe người khác mà chỉ thích nghe những người chúng ta thích, chúng ta ưa mà thôi. Chúng ta nghe bằng tai chưa đủ mà còn phải nghe bằng cả trái tim. Nghe với con tim yêu thương chúng ta mới hiểu đúng, hiểu khách quan, hiểu sự thật về người khác được.

Bài Tin Mừng và các bài đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu rõ ba điều: Thứ nhất, nó tỏ lộ cho chúng ta rõ Đức Kitô chính là Đấng Mêsia muôn dân mong đợi. Ngài đã thực hiện những lời tiên tri Isaia đã tiên báo: " Kẻ đui mù được thấy, kẻ điếc nghe được...người nghèo được nghe giảng Tin Mừng ". Thứ hai, nó mạc khải cho nhân loại, cho chúng ta về một Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai giầu lòng thương xót, luôn chạnh thương đến mọi hoàn cảnh của con người. Thứ ba, nó đặt cho nhiều người vấn nạn, ngày nay người ta lãng quên Chúa nhiều vì không còn cầu nguyện, không tìm kiếm Chúa, do đó, không nghe được Chúa nói và cũng không có cơ hội để thưa chuyện với Chúa. Như thế, nhiều người vẫn đang bị câm điếc.

Chúng ta hãy bắt chước người câm điếc: đi tìm Chúa Giêsu và xin người chữa lành cho chúng ta.
"Lạy Chúa, Ngài quả là chính trực,
Quyết định của Ngài thật công minh.
Với tôi tớ này, xin lấy tình thương mà đối xử ( Tv 118 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng, nhờ Đức Kitô Con Một Chúa,
Chúa đã thương cứu chuộc chúng con và nhận làm nghĩa tử,
Xin lấy tình Cha mà âu yếm đoái nhìn: này chúng con là kẻ tin kính Đức Kitô,
Xin cho chúng con được trở nên những người tự do đích thực và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời" (Lời nguyện Nhập lễ Chúa nhật XXIII thường niên ).

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

7. THÍCH ĐIẾC, MUỐN NGỌNG

Mc 7, 31-37

Các phương tiện truyền thông đang nói nhiều đến sự ô nhiễm: ô nhiễm môi trường sinh thái, ô nhiễm nguồn lương thực, ô nhiễm âm thanh. Bên cạnh đó, các nhà giáo dục còn nói đến ô nhiễm những mặt trái của văn minh phương tây, ô nhiễm tinh thần tục hoá của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ. Hơn lúc nào hết, chúng ta có quá nhiều cái để nghe và cũng có quá nhiều điều để nói đang khi biết bao điều phải nghe mà chưa nghe được, bao nhiêu điều phải nói mà nói không được. Phải chăng, một cách nào đó, chúng ta cũng không hơn chi anh chàng vừa điếc vừa ngọng trong bài Tin Mừng hôm nay khi anh phải nhờ người khác dẫn mình đến với Chúa Giêsu.

"Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi...". Bài hát của một tác giả như là một lời nhắc nhở chúng ta; hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa còn nói với chúng ta nhiều hơn.

Trình thuật Tin Mừng kể chuyện Đức Giêsu chữa lành một người điếc và ngọng. Phép lạ không chú trọng đến việc chữa lành thể chất nhưng đúng hơn, chú trọng đến việc chữa trị tâm hồn. Đức Giêsu mở tai anh, để anh có thể nghe Lời Chúa; mở miệng anh, để anh có thể tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chính Ngài là Đấng Thiên Sai đã được Isaia loan báo trước đó hơn tám thế kỷ, Ngài là Đấng mở mắt người mù, mở tai người điếc và mở miệng người câm như bài đọc thứ nhất và bài đáp ca hôm nay nhắc lại.

Vậy thì Lời Chúa hôm nay nói gì với chúng ta?

Hơn bao giờ hết, chủ đề điếc và ngọng thật hấp dẫn và cũng dễ đụng chạm. Nguyên chuyện khoái điếc, thích ngọng và kể cả muốn mù như căn bệnh mãn tính lâu ngày hoá quen và coi như chuyện nhỏ không thành vấn đề đã là một cái gì đụng chạm ghê gớm.

Anh Chị em, chúng ta sẽ đụng ai khi nói đến những căn bệnh mãn tính nầy? Và một loạt câu hỏi được đặt ra: Đụng ai trước nhất? Vì sao phải đụng? Tại sao chúng ta khoái điếc khi không còn muốn nghe? Tại sao chúng ta thích ngọng khi chẳng còn buồn nói? Ai tập cho chúng ta điếc? Ai dạy cho chúng ta câm?

Có lẽ nhiều người đang nín thở, nhưng dường như tất cả chúng ta đã hiểu lầm hết với câu trả lời của mình. Còn đây mới là câu trả lời đúng nhất, chính xác nhất. Đề cập đến việc khoái điếc, thích ngọng và giả mù của chúng ta sẽ đụng chạm đến chính linh hồn, đụng chạm đến bản thân chúng ta trước nhất.

Chúng ta điếc đặc trước Lời Chúa, ù loà trước tiếng lương tâm, lãng tai trước những nhu cầu của anh chị em chung quanh khi chúng ta thoả hiệp với tội lỗi, nhân nhượng với ích kỷ và sống chung với hèn nhát. Chính lúc đó, chúng ta vô tình chuốc lấy cái bệnh trụt lưỡi và cái khiếm thính mãn tính. Chúng ta sợ đối diện với Lời Chúa nên ngại đặt mình trước mặt Ngài. Vì Lời Chúa là gươm hai lưỡi, thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can. Lời Chúa thẳng băng, luôn mới mẻ, sẵn sàng phanh phui, không nể vì, cũng chẳng thoả hiệp. Chúng ta sợ những phút trầm tư, run rẩy, khi phải lặn sâu xuống lòng mình, bởi lẽ ở đó, tiếng Chúa đang mời gọi, tiếng lương tâm đang kêu réo ới ời.

Không chỉ khoái điếc, chúng ta còn thích ngọng. Trước bao gương mù gương xấu, chúng ta ú ớ không nói được chi, không dám sửa bảo cũng không còn tự tin để chấn chỉnh con cái, bạn bè và đồng nghiệp... vì lẽ chúng ta chưa làm gương tốt đủ, ngôn hành bất nhất, chúng ta không hơn chi các người khác; chúng ta giống hệt các biệt phái ham chuộng bề ngoài mà quên mất nội tâm: miệng thì nam mô, bụng thì mưu mô; lời thì bác ái, lòng thì bái ác; ngoài thì thương yêu nhưng dạ thì ưa thiêu; hết lòng với kẻ ở xa mà đoạn tình với người ở gần, rất gần, ngay trong nhà mình, trong cộng đoàn mình. Vì thế, chúng ta ù ù cạc cạc trước bao điều chướng tai gai mắt. Bên cạnh đó, chúng ta sợ liên luỵ, ngại dấn thân và thích an phận...

Làm sao một người làm cha làm mẹ, làm sao một mục tử, một thầy cô giáo hay một chứng tá của Chúa Kitô trong môi trường mình đang sống lại có thể yên thân? Làm sao chúng ta lại hoá như bao người khác? Mà tại sao lại phải yên thân? Đến đây, có người sẽ nói: Cuộc đời phức tạp lắm, các linh mục không biết đâu! Không, tôi biết. Vì nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ vô tình đánh mất sự hồn nhiên, đánh mất cả sự tự do và đánh mất chính mình. Phải, chúng ta mù loà điếc lác và ngọng miệng, một căn bệnh cần được Đức Giêsu chữa lành.

Đức Hồng Y Gracias nói: "Gương mù cho thế kỷ hôm nay là chúng ta y hệt mọi người khác", dửng dưng như người khác, thờ ơ như người khác và lạnh lùng như người khác.

Không, mỗi ngày, mỗi người chúng ta đều được mời gọi hướng thượng: nhanh hơn, cao hơn và xa hơn. Chúng ta là con cháu Hồng Bàng, là đại bàng sải cánh giữa lồng lộng trời cao; chúng ta không thuộc họ nhà gà lệt đệt. Bùn càng tanh, sen càng phải thơm tho. Bùn càng đặc, sen càng phải toả ngát. Cắm sâu giữa bùn nhưng sen vẫn mãi là sen vì chỉ có sen mới được quyền nói về bùn, cũng như chỉ có bùn mới được quyền nhắm mắt không thừa nhận sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn là vậy.

Chuyện ngày xưa kể rằng, Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: "Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa chi cho nhọc xác?". Mặc Tử trả lời: "Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn tôi?".

Ngày xưa cũng như ngày nay, cám dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó cũng là căn bệnh của chúng ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng sẵn sàng chữa lành nếu chúng ta biết đó là bệnh và ước được chữa lành. Mỗi chúng ta có thể cầu nguyện:

Lạy Chúa, có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai con điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm lưỡi con ngọng. Xin cũng nói với con:"Ephata, Hãy mở ra", để con nghe được tiếng Chúa, tiếng lương tâm mà hoán cải tâm hồn, đổi mới con tim. Xin hãy phá đi bức tường định kiến, bức tường ích kỷ để con mở rộng cõi lòng đón nhận Lời Chúa, đón nhận anh em. Xin hãy mở miệng lưỡi con, cắt đứt sợi dây ích kỷ, sợi dây sợ sệt, sợi dây ươn hèn để con mạnh dạn nói lời chân lý, lời thứ tha, những lời ca ngợi tình Chúa, những lời chúc khen tình người, Amen.

Lm. Minh Anh

8. NIỀM VUI NƯỚC THIÊN CHÚA

Mc 7, 31-37

Xem lại bản đồ Palestina, thì lộ trình đi rao giảng của Chúa Giêsu như sau. Rời Tyrô, người lữ hành sẽ đi về phía Bắc, tức phía Siđôn. Còn nếu muốn tiến xuống phía biển Ghênêsaret (biển Galilêa) ở vùng Dêcapôli tức vùng đông nam biển hồ, thì người ta phải đi ngược lại từ Tyrô.

Ở đây, bản văn Marcô viết: ngang qua Siđôn, đến biển Galilêa băng giữa xứ Dêcapôlia. Như thế, lộ trình này không phù hợp với bản đồ địa lý. Qua sự kiện này, Thánh Sử Máccô gợi nhắc một lần nữa rằng Ngài chỉ muốn trình bày ý nghĩa của những cuộc hành trình của Chúa Giêsu. Người đến đất dân ngoại vì ơn cứu rỗi cũng được trao ban cho các dân ngoại.

Với hành trình như vậy, hôm nay chúng ta được nghe lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành anh chàng vừa điếc và vừa ngọng. Trình thuật này được biên soạn theo kiểu kết cấu tương đồng với câu chuyện chữa lành người mù ở Mc 8,22-26. Chúng ta thử phác họa sơ lược vài chi tiết song chiếu:

Mc 7,31-37
Câu 31: Người ta đem đến cho Người một người vừa điếc vừa ngọng.
Câu 33: Kéo người ấy ra xa dân chúng... Người tra ngón tay vào tai, nhổ nước miếng Người đụng vào lưỡi người ấy.
Câu 36: Rồi người căn dặn không được nói cho ai biết.

Mc 8,22-26
Câu 22: Người ta đem đến cho Người 1 người mù...
Câu 23: Dắt tay người mù, Người đưa nó ra ngoài làng; đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó đặt tay cho nó.
Câu 26: Ngài cho nó về nhà mà dặn rằng: đừng nói với ai trong làng.

Như vậy, trong nhãn quan thần học Máccô, những phép lạ luôn mang giá trị của dấu chỉ thời đại Thiên sai mà Chúa Giêsu đến khai mở. Ở Thời đại ấy, ở Nước ấy của Thiên Chúa thì sẽ không còn những người đui mù, câm điếc nữa mà ở Nước Thiên Chúa là những người hạnh phúc, bình an và vui mừng. Nước Thiên Chúa, Nước của bình an và hoan lạc ấy được Thánh Sử gợi nhắc ở câu 37. "Bấy giờ mắt mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm cũng sẽ reo hò". Câu này có nét gì đó tương đồng với đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe:

" Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em."
Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ mọc lên. (Is 35, 4-7)
Nước Thiên Chúa còn hơn thế nữa. Nước Thiên Chúa là nơi mà:
Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ
và dân ở đó thành nỗi vui mừng.
Vì Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng.
Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la.
Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh chết yểu
và người già tuổi thọ không tròn;
vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ,
và chưa tròn trăm tuổi mà chết là bị nguyền rủa.
Người ta sẽ xây nhà và được ở,
sẽ trồng nho và được ăn trái.
Người ta sẽ không xây nhà cho kẻ khác ở,
không trồng nho cho kẻ khác ăn;
vì cây được bao nhiêu tuổi, dân Ta cũng sẽ thọ bấy nhiêu;
và những kẻ Ta chọn sẽ được hưởng kết quả do tay chúng làm.
Chúng sẽ không luống công vất vả,
không sinh con cho con chết bất ưng,
vì chúng sẽ là dòng dõi
những người được Đức Chúa ban phúc lành,
bản thân chúng cũng như cả nòi giống.
Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta đã đáp lời,
chúng hãy còn đang nói thì Ta đã nghe rồi.
Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá
trên khắp núi thánh của Ta." Đức Chúa phán như vậy. (Is 65, 17-25)

Qua đoạn sách ngôn sứ Isaia về hình ảnh của Nước Thiên Chúa, ta thấy nước ấy là một nước tràn đầy hoan lạc và bình an. Ở trong nước ấy "chiên con và sói con cùng ăn cỏ, sư tử cùng ăn rơm như bò" chứ không có chuyện thiệt hơn, tranh giành, cãi cọ và chà đạp người khác.

Sự hơn thua, tranh giành và chà đạp người khác thời nào cũng có. Cách riêng, thời của Chúa Giêsu, những người biệt phái, những người pharisêu tự cho mình là hơn người khác để rồi coi thường người khác. Nước Thiên Chúa không có chỗ cho những người như thế.

Chắc có lẽ bực mình và chướng mắt trước những con người chỉ nhìn cái bề ngoài, xét đoán cái bề ngoài mà không trân trọng cái bên trong, cái chất thật của con người nên thánh Phaolô hôm nay đã phải thốt lên: "Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn với người nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó! " hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi đây! ", thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao? (Gc 2, 3-4).

Ở Nước của Thiên Chúa thì không có chuyện phân biệt đối xử như vậy. Ở Nước Thiên Chúa là như thế này: Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao (Gc 2, 5).

Nước Thiên Chúa, ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo khổ, những người bị bỏ rơi, những người thấp cổ bé miệng như anh chàng câm điếc hôm nay Chúa Giêsu đã chữa lành. Niềm vui Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta nếu chúng ta sống trong tâm tình khiêm hạ, nhỏ bé, coi tất cả mọi người như anh em như lời thánh Giacôbê vừa mời gọi chúng ta và chúng ta cũng không miệt thị, không phân biệt đối xử với những người tật nguyền như Chúa trong tin mừng hôm nay.

Xin Chúa mở con mắt chúng ta thật to để chúng ta nhìn thấy những anh chị em thấp cổ bé miệng đang ở gần ta, ở xung quanh ta để ta xoa dịu, chia sẻ nỗi đau, sự thấp bé của họ để ta mang hạnh phúc đến cho anh chị em đồng loại ngay thế gian này và những hạnh phúc ấy chính là những hạnh phúc nho nhỏ mang chúng ta đến hạnh phúc, đến niềm vui ở trên trời mà Chúa đang dọn sẵn và chờ đợi chúng ta.

Anmai, CSsR

9. HÃY MỞ RA

Mc 7, 31-37

Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: "Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất". Họ trả lời: "Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc".

Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.

Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.

Có nhiều thứ điếc.

Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.

Có thứ điếc vì định kiến. Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.

Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.

Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.

Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.

Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.

Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.

Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.

Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đến nói với ta: "Ephata". Hãy mở ra.

Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.

Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.

+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

10. VÌ KHÔNG BIẾT NGHE

Mc 7, 31-37

Loài vật vốn có tình bầy đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình mà không phản bác lại được. Thế nhưng, y học thì cho thấy ngược lại: chính vì bị điếc, không nghe được nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con người không thể tập nói. Trẻ thơ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã nghe.

Bài Tin mừng Chúa Nhật XXIII TN B kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói về thể lý là một khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khỏ ấy dường như chỉ hạn hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho nhiều người và hậu quả cũng thật khó khắc phục. Dù thuộc bình diện thể lý hay bình diện tinh thần, thì luôn có mối liên hệ gần như là nhân quả giữa hai phạm trù nghe và nói. Đó là do bởi sự bất lực hay hạn chế trong khả năng nghe ( không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác ), nên người ta mắc bệnh câm hay ngọng là không nói được, nói không rõ, không chính xác hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói, hoặc có nói thì cũng như không.

Hẳn nhiên, chúng ta không chỉ thở dài phiền não mà còn bất bình với những người đang nắm trọng trách lãnh đạo vì cớ nào đó đã làm kiếp "chó câm" như kiểu nói của Đức Bênêđictô XVI khi ngài còn là Hồng Y. Chúa Giêsu chỉ im lặng trước Caipha và trước Philatô sau khi đã nói những gì cần nói và phải nói: Tôi là Con Thiên Chúa Hằng Sống; Tôi là Vua, đến thế gian để làm chứng cho sự thật...( x.Mt 26,64; Ga 18,37 ). Ngay phút giây hấp hối trên thập giá Người vẫn nói lời tình yêu, lời chân lý cho đến khi "mọi sự đã hoàn tất". Chúng ta cũng không chỉ bực mình mà còn phẫn nộ truớc những người thường xuyên nói với kiểu "nói ngọng, nói vẹt", tức là nói không đúng hiện thực hay chỉ biết nói những gì được chỉ đạo, được lập trình sẵn... Có thể có nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan gây ra tình trạng này. Tuy nhiên ở đây chúng ta cùng xem xét một nguyên nhân đó là không biết nghe.

Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh chúng ta nhận ra điều này là không kể các kỳ công của cuộc tạo dựng và một số dấu lạ điềm thiêng, thì Thiên Chúa thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn, cụ thể là các ngôn sứ, những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret, một xứ sở không có gì đáng nói, một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng, như lời nhận định bộc trực của Nathanael với Philipphê ( x.Ga 1,46 ). Chúa Giêsu lại chọn gọi 12 người cộng tác để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta về cái lề thói thích thiên tư, gần gủi với những người sang giàu. Đây là một trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người có quyền có chức. Họ thường nghe nhân viên thuộc cấp báo cáo, nghe người cộng sự thân cận... mà những người này thì khó tránh được chước cám dỗ nói những gì thuận tai cấp trên, đẹp lòng lãnh đạo, thế là nhiều khi có nghe cũng như không nghe vì không nắm được thực chất của sự kiện hay vấn đề. Một lẽ thường tình: người ta vốn thích nghe những gì dễ nghe.

Để khỏi bị điếc, tức là để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than. Lịch sử cho biết thỉnh thoảng có được một vài minh quân đã biết "vi hành" trong lớp vỏ một dân thường để "nghe-nhìn" cho chính xác hơn tình cảnh dân chúng mà mình đang cai trị. Ngày nay trong sinh hoạt các Hội Dòng vẫn có được chuyện tốt đẹp này khi các Bề trên theo định kỳ, đi kinh lý các cơ sở thuộc quyền và gặp gỡ riêng với từng thành viên của Hội Dòng. Dù mang kiếp "làm dâu trăm họ", nhưng điều này không chuẩn chước cho việc mục tử phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chiên trong lẫn ngoài đàn. Đã là mục tử thì không thể không "biết" chiên. Và một trong những điều kiện ắt có để biết chiên là phải biết lắng nghe. Mong sao việc gặp gỡ giữa mục tử và đàn chiên không dừng lại ở hình thức "tiếp xúc cử tri" như ngoài xã hội dân sự nước nhà chúng ta hiện nay.

Vẫn có những người tuy nghe rõ, nghe đúng nhưng làm như không nghe, không hiểu. Có thể xem nhiều người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu thuộc hạng người này. Chính Chúa Giêsu đã từng lấy lời ngôn sứ Isia để nhận định: " Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy: vì lòng dân này đã ra chai đá; chúng đã bịt tai, nhắm mắt..." ( Mt 13,14 ). Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng, tức là nói không đúng với hiện thực khách quan, nhiều khi còn cố tình đổi trắng thay đen như trường hợp người ta vu khống Chúa Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ ( x.Mc 3,20-30 ). Không chịu nghe hay không muốn nghe chính là một tình trạng cố chấp và Chúa Giêsu đã từng lên án thái độ này là "chống lại Thánh Thần" ( x.Mt 12,32; Mc 3,29; Lc 12,10 ).

Chúa Giêsu đã từng minh nhiên khen ngợi sự khiêm nhu của vua quan và toàn dân thành Ninivê khi họ biết lắng nghe lời "tuyên họa" của Giona, để rồi ăn năn, sữa đổi đời sống ( x.Lc 11,32 ). Quả thật, để biết lắng nghe thì không nguyên chỉ tìm cách đến với đám đông dân chúng, vì ý của trời thường phản ánh qua ý của dân, mà chúng ta còn cần phải có một tâm hồn khiêm nhu, hướng thiện thực sự.

"Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con ..." Lời kinh đầu ngày của các Giờ Kinh Phụng Vụ nhắc nhớ chúng ta chúng ta bổn phận ca ngợi Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng lời ngợi ca đẹp lòng Thiên Chúa nhất là nói lời yêu thương trong sự thật và nói lời sự thật trong tình yêu thương. Và chắc hẳn chúng ta sẽ lại nghe lời của Đấng Cứu Độ: Ephrata ! Hãy mở ra ! Hãy mở tai, mở mắt, mở lòng để biết lắng nghe !

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

11. CHÚA CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC

Mc 7, 31-37

Đứng trước những người câm điếc quả thực chúng ta khó làm cho họ hiểu chúng ta muốn nói gì, muốn diễn tả gì. Bởi vì, điếc chẳng nghe được lời nói của chúng ta và người câm lại không thể thốt lên lời điều họ muốn diễn ta với chúng ta. Do đó, chúng ta hiểu được nỗi vui sướng ra sao khi Chúa Giêsu chữa lành cho người vừa câm lại vừa điếc.

Trong bài Tin Mừng Mc 7, 31-37, Đức Giêsu đã chữa lành cho một người vừa câm lại vừa điếc. Ở đời, thường người câm lại hay bị điếc. Bởi vì nếu chỉ bị câm mà không điếc, người này sẽ rất khó chịu khi họ nghe được, đặc biệt khi ai đó làm điều gì họ phật ý. Người câm sẽ điên lên, sẽ tức bực hết chỗ nói khi họ nghe người khác chửi họ hoặc nói những điều xúc phạm đến họ.Người câm như có một sợi dây ràng buộc, trói buộc lưỡi họ khiến họ không để nói được dù họ rất muốn nói. Đức Giêsu đã đụng tới lưỡi anh ta, khiến sợi dây bị tung ra, bị bật ra, khiến người câm có thể nói được rõ ràng và dễ dàng. Làm điều này, Chúa Giêsu giúp ta hiểu bài đọc 1, hiểu được lời ca của Israen thoát khỏi nô lệ, lưu đầy: sa mạc nở hoa, đất đai phì nhiêu, cây cối xanh tươi làm phấn khởi lòng người. Thiên Chúa sẽ đến cứu dân của Ngài cách thực tế, cụ thể, nghĩa là người mù được thấy, kẻ què đi được, người điếc nghe được và người câm nói được. Chính Đức Giêsu đến thực hiện những điều ngôn sứ Isaia loan báo. Chúa Giêsu nói Ep-pha-tha hãy mở ra. Ngài đã làm cho người câm điếc khỏi bệnh hoàn toàn: nói và nghe bình thường. Việc chữa lành của Chúa Giêsu đối với người câm điếc diễn tả hai dấu chỉ mà ngôn sứ Isaia đã nói để cho dân chúng nhận ra được Đấng Mêsia. Việc Chữa lành người câm điếc còn nói lên Đức Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Bởi vì, khi tách anh ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đánh tan sự lúng túng của anh ta, đồng thời nói lên lòng thương xót thực sự đối với anh. Chúa Giêsu rất nhạy cảm với tình cảnh hết sức đáng thương của người câm điếc.Như vậy, Chúa Giêsu qua việc chữa lành này vừa tỏ cho nhân loại, cho chúng ta Ngài là Đấng Mêsia muôn dân mong đợi và đồng thời, Ngài cũng là Đấng giầu lòng thương xót. Việc chữa lành người câm điếc cũng tạo nên nguồn hy vọng lớn lao cho mọi thế hệ đang sống nơi trần gian đầy cam go, thử thách và bệnh hoạn.

Trong một thế giới, con người vẫn chưa bình đẳng về mọi mặt, mơ ước bình đẳng là một cớ vấp phạm đối với những người bệnh họan tật nguyền vì nhiều người cho rằng thà họ đừng sinh ra thì hơn. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài luôn trân trọng những người bệnh hoạn, tật nguyền và luôn bênh vực những mẹ góa con côi. Trước những nghịch cảnh của cuộc đời, những người neo đơn, góa bụa, những trẻ lang thang bụi đời, những kẻ đầu đường xó chợ, những kẻ bơ vơ vất vưởng, các em mồ côi, những cháu tật nguyền, người môn đệ Chúa không được dửng dưng cho rằng những thành phần này đã có những cơ sở xã hội lo cho họ rồi. Mỗi người chúng ta, mỗi môn đệ Chúa phải có trách nhiệm lo cho những người này vì Chúa dạy chúng ta phải yêu thương họ và tỏ tình liên đới gắn bó với họ. Chính thánh Giacôbê trong bài đọc 2 đã nhắn nhủ tất cả những người tin vào Chúa Giêsu đừng đối xử thiên vị, đừng thiên tư, đừng phân biệt giầu nghèo bởi vì những người xem ra không may mắn, khó nghèo lại được Chúa hứa ban nước trời.

Chúng ta và nhiều người có thể không bị câm điếc thật sự về mặt thể lý, nhưng chúng ta đang bị câm điếc về mặt tinh thần. Chúng muốn biến chúng ta thành những hòn đảo. Chúa muốn chúng ta phải chia chia sẻ và cho đi. Vì con người thường chuộng giầu và dễ khinh giầu. Lời Chúa dạy chúng ta thực hiện những dấu chỉ của ơn cứu độ khi chúng ta biết quan tâm tới người khác, biết giúp đỡ những người khó nghèo, biết tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Thực hiện được những điều Chúa dạy là chúng ta đã biểu lộ những dấu chỉ của ơn cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con bị câm điếc trước lời mời gọi giúp đỡ những người khó nghèo và cảm thông với những người đang gặp khó khăn. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

12.  ĐỨC GIÊSU- DẤU CHỈ THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN

Mc.7, 31-37

Đức Giêsu xuất hiện ở đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người "thiện tâm" ở đó. Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.

1. Đức Giêsu- niềm vui và hy vọng của người đương thời

Sau khi Đức Giêsu chữa người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: "Người làm mọi sự tốt đẹp". Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này, người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật "vất vả". Ngài đã phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta. Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác được biến đổi, được chữa lành.

Qua Đức Giêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện, người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ. Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Gioan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.

Đức Giêsu, con người nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời đó được nhìn thấy Thiên Chúa "hữu hình" hiện diện. Ngài là ân sủng cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.

2. Đừng thiên vị nhưng hãy tôn trọng mọi người vì họ là người

Con người của mọi thời đại vẫn "trọng phú khinh bần". Người giầu luôn được người ta kính trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người "đời". Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người "đời", thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không! Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với cách cư xử của người "đời". Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là người.

Mỗi người, là một giá trị tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.

Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là người đó đang có "vấn đề". Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật sự.

3. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt Vời

Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc. Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.

Khi con người không yêu thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa. Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô, và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày trong cuộc sống mỗi người.

Đức Giêsu là Đấng sống yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.

LM Phạm Thanh Liêm, SJ

13. EPHATA! HÃY MỞ RA

Mc.7, 31-37

Bài giảng của Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng vụ Chúa Nhật XXII B tuần nay như sau:

Đoạn Tin Mừng nhắc chúng ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện.

"Và người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Epphatha",( nghĩa là, "Hãy mở ra!"}, và lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, anh ta nói được rõ ràng" (Mark 7:32-35).

Chúa Giêsu không làm phép lạ như có người vung chiếc đũa thần hay lả bật ngón tay. Tiếng rên thoát ra từ miệng Người lúc Người rờ tới tai người điếc nói với chúng ta rằng Người đồng hóa với sự đau khổ người ta, Người chia sẻ mãnh liệt trong sự rủi ro của họ, đã thành gánh nặng của Người.

Trong một dịp, sau khi Chúa Giêsu đã chữa nhiều người bịnh, tác giả tin mừng bình luận: "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Matthew 8:17).

Những phép lạ của Chúa Giêsu không bao giờ tự nó là cùng đích, chúng là những dấu. Điều Chúa Giêsu ngày trước đã làm cho một người trên bình diện thể lý, chỉ điều Người muốn làm hằng ngày cho mọi người trên bình diện thiêng liêng.

Người Chúa Giêsu chữa lành đã điếc và ngọng, anh ta không thể thông truyền với những kẻ khác, nghe tiếng nói của anh và bày tỏ những cảm giác và nhu cầu của anh. .Nếu bịnh điếc và ngọng không có khả năng thông truyền đầy đủ với người thân cận mình, để có những tường quan tốt đẹp, thì chúng ta phải hiểu ngay rằng tất cả chúng ta bị điếc và ngọng nhiều hay ít, và đó là lý do Chúa Giêsu rên với tất cả chúng ta tiếng: Epphatha, Hãy mở ra!

Sự khác biệt là bịnh điếc thể lý không tùy thuộc vào cá nhân và người đó hoàn toàn không đáng trách, đang khi bịnh điếc luân lý thì đáng trách.

Ngày nay người ta tránh dùng từ ngữ "điếc" và chúng ta chuộng hơn cách nói " khuyết tật thính giác," chính là để phân biệt sự kiện đơn thuần không nghe nói về sự điếc luân lý.

Chúng ta điếc, xin đan cử ví dụ, khi chúng ta không nghe tiếng kêu cứu với chúng ta và chúng ta thích đặt giữa chúng ta và người thân cận "hai thứ nước men" sự dửng dưng. Cha mẹ điếc khi không hiểu rằng những thái độ kỳ dị và rối loạn của con cái dấu một tiếng kêu xin chú ý và yêu thương.

Một người chồng điếc khi ông không thể thấy trong sự nhút nhát sợ hãi của vợ mình dấu chỉ sự kiệt sức hay sự cần có một sự làm sáng tỏ. Và cũng một sự kiện đó áp dụng cho người vợ.

Chúng ta điếc khi chúng ta khép kín mình, vì kiêu hãnh, trong một sự yên lặng lãnh đạm và đầy phẫn nộ, đang khi có lẽ với chỉ một tiếng xin lỗi hay tha thứ chúng ta co thể mang lại bình an và an toàn cho nhà cửa.

Chúng ta những tu sĩ nam và nữ có những thời gian thinh lặng trong ngày, và thỉnh thoảng chúng ta cáo mình khi xưng tội:" Con đã phá vỡ sự thinh lặng." Tôi tưởng thỉnh thoảng chúng ta phải cáo mình về điều ngược lại và nói: "Con đã không phá vỡ sự thinh lặng."

Điều quyết định chất lượng sự truyền thông, dầu sao, không phải chỉ nói hay không nói, nhưng làm như vậy hay không làm như vậy vì tình yêu. Thánh Augustine nói với dân chúng trong một phát biểu: Không thể biết trong mọi hoàn cảnh phải làm gì: nói hay thinh lặng, sửa chữa hay là buông xuôi.

Đây là một luật đúng đúng cho mọi trường hợp: "Hãy yêu và hãy làm gì anh muốn." Hãy quan tâm có tình yêu trong con tim lúc đó, nếu anh nói, là do tình yêu, nếu anh thinh lặng là do tình yêu, và mọi sự sẽ nên tốt đẹp bởi vì duy chỉ sự lành đến từ tình yêu.

Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu nơi nào bắt đầu sự phá vỡ truyền thông, nơi nào sự khó khăn của chúng ta phát sinh để thông cảm với nhau một cách lành mạnh và tốt đẹp. Khi Adam và Eva ở trong những quan hệ tốt với Thiên Chúa, sự liên hệ giũa hai ông bà cũng tốt đẹp và sung sướng: "Đó là thịt bởi thịt tôi." Tương quan của ông bà với Thiên chúa vửa gián đoạn. vì sự bất phục tùng, thì bắt đầu những sự cáo tội lẫn nhau: "Tại ông ấy, tại bà ấy..."

Chính từ đó mà người ta phải bắt đầu trở lại. Chúa Giêsu đến để "hoà giải chúng ta với Thiên Chúa" và như vậy hoà giải chúng ta với nhau. Người làm như vậy hơn hết qua các bí tích. Giáo Hội đã luôn thấy trong những cử chỉ xem ra kỳ dị mà Chúa Giêsu đã làm với kẻ điếc-ngọng (Người đặt ngón tay trong tai anh và động tới lưỡi anh) một biểu trượng của các bí tích nhờ vậy mà Người tiếp tục "rờ" chúng ta phần xác hầu chữa lành chúng ta phần thiêng liêng.

Đó là lý do tại sao trong bí tích rửa tội thừa tác viên thực hiện những cử chỉ trên một người được rửa tội như Chúa Giêsu đã làm trên người điếc-ngọng: Thừa tác viên ấy đặt ngón tay mình vào tai anh và rờ tới đầu lưỡi anh, lập lại lời Chúa Giêsu: "Ephphatha, Hãy mở ra!"

Bí tích Thánh Thể cách riêng giúp chúng ta chiến thắng sự bất lực thông truyền với người thân cận chúng ta, làm cho chúng ta kinh nghiệm sự hiệp thông kỳ diệu nhất với Thiên Chúa.

Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách

14. EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC THÌ TAI ANH TA MỞ RA, VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC

Mc.7, 31-37

Chắc chúng ta đã có kinh nghiệm "như câm như điếc" khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương, khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.

Chúng ta sống và tồn tại là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa, với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải phát triển mình trong ba tương quan đó.

Và để có tương quan với người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.

Nếu chúng ta đánh mất khả năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài. Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình được lành lặn là một hồng ân rồi.

Tim mừng hôm nay nói tới tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng: bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.

Đức Kitô hiểu được nỗi đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.

Lời loan báo trong bài đọc I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức Giêsu thực hiện: "Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được". Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.

Kính thưa anh chị em,

Chúng ta không có câm điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của những người đau khổ xung quang.

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho người khác...

Chúng ta bị câm điếc khi chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.

Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: "Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc".

Ephata, hãy mở ra! Lời đó Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.

LM Peter Nguyễn Hương

15. EPHATA: HÃY MỞ RA

Mc 7,31-37

Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy rất ít chỗ trong Phúc Âm còn lưu truyền lại tiếng Aramäisch, tiếng mẹ đẻ của Ðức Giêsu, như trong bài Phúc Âm hôm nay : « Effata : Hãy mở ra ! » Tại sao người ta lại lấy tiếng đó làm quan trọng và lưu truyền lại cho tới ngày nay ? Phải chăng người ta còn lưu truyền tiếng đó lại, vì cho rằng nó có một sức mạnh có thể chữa lành các tật bệnh, như thể một tiếng thần chú vậy ? Dĩ nhiên là không phải thế !

Cũng như chính Ðức Giêsu đã không đến trong thế gian để chữa lành tất cả mọi bệnh tật một cách cách có hệ thống, Giáo Hội cũng không cho mình có sứ mệnh như một cơ sở nghiên cứu các phương pháp chữa bệnh một cách kỳ lạ. Vì thế, xưa kia khi Ðức Giêsu chữa lành một bệnh nhân tìm đến với Người, là chỉ muốn qua đó nhắc cho con người đến một sự chữa lành khác quan trọng và cần thiết hơn bội phần, một sự chữa lành có liên hệ với sự tương quan giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa. Cũng vì thế Người đã chữa lành người câm và điếc mà Người đã gặp trên đường đi.

Trong cuộc sống xã hội hằng ngày, nhiều người đã từ từ trở nên tư lự ít nói và cuối cùng thành câm luôn, dĩ nhiên không vì bộ phận phát âm của họ bị bệnh, nhưng vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bất thuận lợi : họ nói mà không một ai thèm để ý lắng nghe. Ðó là một thứ bệnh câm phát xuất từ thái độ bịt tai giả điếc của những kẻ khác. Bởi vì những người sống bên cạnh tôi chỉ biết có mình họ và họ tự đóng khung trong chính con người của họ, nên mọi cố gắng tìm thông tin đối thoại của tôi trở thành vô ích. Tôi có nói cũng chỉ nói để mình tôi nghe. Tiếng nói của tôi chỉ là tiếng nói trong sa mạc của tình cảm chết, không có tiếng vọng, không có tiếng trả lời ! Từ từ tôi trở thành câm, quên mất tiếng nói của loài người. Quả thực đây là một căn bệnh mà các vi khuẩn của nó ít nhiều đang đồn trú trong mỗi người chúng ta.

Quả vậy, thường chỉ do một sự hiểu lầm nho nhỏ, một sự khác biệt ý kiến hay một sự bị làm tổn thương nho nhỏ, bỗng nhiên cả toàn bộ những tương quan và tình nghĩa thân thiết trong cuộc sống chồng vợ, cuộc sống gia đình hay cuộc sống xứ đạo hoàn toàn bị đóng băng, bị tê liệt hay bị sụp đổ. Lý do là vì những người trong cuộc muốn giữ thái độ câm nín và giả điếc, chứ không muốn mở miệng để nói với nhau và mở tai để nghe tiếng nói của nhau nữa, hầu cùng nhau tìm ra nguyên nhân đã gây ra cớ sự và giải tỏa đi những vướng mắc. Hoặc mỗi người đều chỉ muốn bày tỏ quan điểm của mình và khư khư bảo thủ quan điểm đó, chứ không còn muốn kiên nhẫn lắng nghe quan điểm của kẻ khác để tìm ra một dung hòa nào đó !

Nếu thành thật với lương tâm, lắm lúc chúng ta phải tự cảm thấy hổ thẹn với chính mình, bởi vì chúng ta đã không rộng lượng với nhau; bởi vì chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình, đến lợi ích tư riêng của mình mà thôi!

Nhưng ai sẽ có thể chữa lành chứng bệnh câm và điếc này của chúng ta ? - Xin thưa, không có ai cả ! Ðức Giêsu cũng không ! Ðức Giêsu chỉ có thể chỉ cho ta con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh ! Người chỉ cho chúng ta cách thức có thể giúp chúng ta tự giải thoát mình khỏi chứng câm và điếc kia : « Effata ! Hãy mở ra ! » Ðức Giêsu chỉ có thể giúp ta phương pháp : « Effata ! Hãy mở ra ! » còn chính hành động « mở ra » thì chúng ta phải tự làm lấy. Chúng ta phải tự mở rộng lòng mình ra. Chúng ta phải tự mở rộng sự quảng đại của mình ra. Chúng ta cần phải tự bắc nhịp cầu nối lại với người khác. Chúng ta cần phải tự giải thoát mình khỏi sự ích kỷ hẹp hòi, khỏi sự tự tôn tự đại, và biết can đảm lắng nghe kẻ khác.

Những ai không muốn cố gắng tập cho mình có thói quen biết quan tâm đến ý kiến người khác, thì làm sao họ có thể nghe được tiếng Chúa ? Bởi vì tiếng Chúa luôn luôn âm thầm nhỏ nhẹ, đến nỗi rất dễ bị các tiếng nói ồn ào khác xuất phát từ môi trường sống chung quanh hay bởi chính nội tâm bất ổn của chúng ta lấn át đi và không thể nghe được nữa

Nếu chúng ta tìm cách giả điếc làm ngơ trước tiếng Chúa, trước tiếng lương tâm mình, hoặc chúng ta không còn muốn lắng nghe người đồng loại, không muốn giao tiếp với họ nữa, chúng ta sẽ trở thành câm và điếc, chúng ta sẽ trở nên bệnh hoạn và cần phải được chữa lành.

« Effata ! Hãy mở ra ! » Tất cả chúng ta cần phải mở rộng cửa lòng mình ra cho Thiên Chúa và cho người đồng loại. Chúng ta cần phải giải thoát mình khỏi sự cô lập của chính bản thân và nối lại mọi quan hệ với Thiên Chúa và với những người khác. Ðó là con đường dẫn tới sự chữa lành căn bệnh bất trị câm điếc của chúng ta.

« Lạy Chúa, xin hãy mở lòng và môi con, đề miệng con cao rao lời ngợi khen Chúa ! Xin Chúa hãy mở miệng con ra để con ca ngợi Chúa, và xin hãy ban cho con một Thần Khí mới ». Amen

LM Nguyễn Hữu Thy

16. CÂM ĐIẾC TINH THẦN

Mc.7, 31- 37

Con người sinh ra ai cũng muốn được hoàn bị, không dị tật và đấy là ước mơ, không ai muốn mình bị tước mất những khả năng nghe, nhìn, nói,. ....Thế nhưng vẫn có tình trạng ấy xẩy ra nên con người đau khổ mong muốn, khao khát được chữa lành. Trong Cựu Ước tiên tri Isaia loan báo Đấng Mesia đến sẽ thực hiện được điều đó(Is.35,4-7a) và Tv.145 trong bài đáp ca cũng công bố Thiên Chúa sẽ giải thoát con người khỏi tù tội, mở mắt cho kẻ mù lòa...đặc biệt trong bài Tin Mừng cho chúng ta thấy niềm ước mong của con người đã được thực hiện khi Chúa Giêsu xuất hiện làm trọn những lời các ngôn sứ đã nói, Người chữa bệnh cho một người bị ngọng và điếc (Mc.7,31-37).

Như thế phung vụ Lời Chúa hôm nay muốn nói đến Đức Kitô là vị lương y tuyệt diệu mà tiên tri Isaia đã báo trước. Người đến và thông cảm những nỗi đau của nhân loại, Người ra tay cứu giúp bằng những phép lạ như bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Lữơi, tai là hai cơ quan để truyền thông của con người, nhưng khi bị ngọng hay câm điếc người ta không còn giao tiếp tự nhiên với người khác nữa, lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín. Những người này bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, cũng như người khác không hiểu được họ. Thấu hiểu nỗi khổ của con người Chúa Giêsu đã mau mắn cứu giúp, nhưng ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dẫn người bệnh đi xa khỏi đám đông rồi mới chữa, vì Chúa không muốn họ bị sai lạc về đức tin khi thấy Chúa Giêsu làm những cử chỉ có vẻ như ma thuật. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin vào Chúa chứ không phải vì mê tín hay được hưởng những chuyện lạ thường lợi lộc vật chất.

Ngày nay chúng ta cũng thường mắc chứng bệnh điếc, mặc dù chúng ta có đôi tai thể lý rất thính, nghe được mọi chuyện mà không nghe được Lời Chúa thì cũng như điếc, chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác, hoặc nghe nhưng lại hiểu theo chủ quan, như thế thì vẫn là không nghe được điều người khác muốn nói. Chúng ta bị điếc khi chúng ta lắng nghe mà không nhận thức được đúng - sai, hay - dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Trong chúng ta không ai muốn mình điếc hay lãng tai, nhưng chúng ta chỉ thích nghe điều mình muốn nghe, những lời nịnh hót hay khen thưởng, còn những điều khiển trách, giáo huấn chúng ta lại không muốn nghe thì cũng là điếc.

Miệng lưỡi tốt có khi còn lợi khẩu, nhưng lại không biết nói những điều tốt, những điều đáng nó, những điều sửa dạy trong cương vị làm cha mẹ, làm thầy dạy, làm bề trên ...thì cũng là câm. Nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất nhưng không biết tuyên xưng lòng nhân lành của Chúa, không biết loan báo Lời thì cũng như câm. Nói để người khác hiểu được mình, đó là ước mơ của chúng ta, nhưng chúng ta lại thấy như có gì trói buộc muốn nói mà không nói được, sợ mất lòng, sợ lụy đến thân, sợ mất chức quyền, sợ nhiều thứ khiến chúng ta ngần ngại, sợ hãi né tránh... Tệ hại hơn có khi người ta bị câm vì bị châm chọc, khinh miệt, khước từ...và họ đã tự động khép lại.

Thế giới ngày nay thiếu cảm thông nên cũng là câm điếc thiêng liêng, bệnh này biến người ta thành hòn đảo, chẳng có gì để cho và cũng cũng có gì để nhận, để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình, nên cũng cần phải được Chúa chữa trị, kẻo bị Chúa Giêsu quở trách như đã quở các tông đồ xưa" có tai mà không nghe, có mắt mà không nhìn" (x.Mc.8,18). Vì thế, khi nghe bằng tai thôi chưa đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt, Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe, cần phải chọn lựa những thông tin bổ ích hữu dụng, không gây phương hại, vẩn đục tâm hồn. Một tác giả kia đã nói " Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình, được hiểu sau lớp ngôn từ"

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức rằng qua Bí Tích Thánh Tẩy, Hội Thánh nhân danh Chúa Giêsu đã khai mở cho chúng con một đời sống hiệp thông với Thiên Chúa, để chúng con biết phát triển đời sống đức tin và đức mến, luôn lắng nghe tiếng Chúa và không ngừng rao giảng tình thương cứu độ của Chúa qua đời sống chứng nhân của chúng con giữa lòng đời.

Sr Mai An Linh

17. CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG

Mc 7, 31 - 37

Những công việc và phép lạ Chúa Giêsu làm khi ở trần gian, thường có nhiều ý nghĩa. Chúa đã làm một công đôi ba việc, hay nhất cữ lưỡng tiện. Chẳng hạn như phép lạ chữa người câm điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa đã làm một cách trịnh trọng khác thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như đụng chạm tới, đặt tay trên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết...thế là phép lạ đã được thực hiện. Vậy mà đối với người câm điếc này, cách Chúa làm có vẻ phiền phức hơn. Những cử chỉ phiền phức ấy đều có ý nghĩa tượng trưng của chúng.

Trước hết, Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông. Vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng, có thể gây nên bạo động; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những cử chỉ tượng trưng của Ngài. Phép lạ này xảy ra ở miền Thập Tỉnh, là nơi có nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do thái, nên chắc chắn họ không hiểu được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ cho Ngài là một thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh. Hơn nữa, việc Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín đáo và khiêm tốn.

Thứ hai, Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc. Đối với những người nghe được thì bao giờ Chúa cũng dùng lời nói để đòi điều kiện đức tin. Còn đối với người điếc thì cần phải có cử chỉ. Cử chỉ sẽ gây nên công hiệu làm nảy nở lòng tin để tin vào quyền phép Đấng làm phép lạ. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc tượng trưng cho sức mạnh Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông một sức linh diệu, một sự nhạy bén, để họ có thể nghe thấy tiếng Chúa cách dễ dàng.

Thứ ba, Chúa bôi nước bọt vào lưỡi người câm điếc. Có vẻ mất vệ sinh không ? Cứ sự thường nước bọt có chứa nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận ra một cử chỉ uy quyền của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.

Sau cùng, Chúa ngước mắt lên trời, thở dài và nói "Ép-pha-tha : hãy mở ra". Không mấy khi đứng trước những bệnh tật đau khổ của thân xác con người mà Chúa không nghĩ tới những khốn khổ của linh hồn họ. Có lẽ sự liên tưởng đó đã khiến Chúa phát ra tiếng thở dài ấy chăng ? Nhưng dù khốn khổ thế nào chăng nữa, cũng không phải là vô phương cứu chữa. Đôi mắt Chúa ngước lên trời bày tỏ một niềm hy vọng sâu xa vào quyền phép của Chúa. Một tiếng : "Phi-át : xin vâng" đã lôi cả vũ trụ vạn vật từ chỗ không đến có, thì tiếng "Ép-pha-tha" này cũng chữa lại vài sự lệch lạc nơi tạo vật ấy một cách dễ dàng như vậy.

Thường thường những người mới sinh ra mà đã bị câm thì cũng bị điếc luôn. Người câm và điếc bị thiệt thòi rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Dù câm điếc vì lý do gì vẫn là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng ta.

Tuy nhiên, ngoài những người câm điếc thực sự về thể xác này, còn có những hình thức câm điếc khác nữa, hiểu theo nghĩa bóng hoặc về phương diện tinh thần, thiêng liêng. Chẳng hạn có những người câm điếc vì không muốn nói; không muốn nghe, do một lý tưởng nào đó tác động : hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất đáng khen tụng, đó là những anh hùng tuẫn giáo hay những chiến sĩ, cán bộ can trường, nhất định không chịu tiết lộ bí mật, không chịu phản bội lý tưởng. Ngược lại, có những người câm điếc cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng người này lại đáng chê trách.

Lại có những người câm điếc khi bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm : tai trâu, tau cối, lơ dễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa, hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi cần, khi có nhiệm vụ, khi có trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng được xếp vào loại những người câm.

Sau hết, có những người câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ, không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh vực sự thật khi cần phải lên tiếng vv...Còn điếc thiêng liêng là những người không muốn nghe Lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn mình vv...Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi...như thế dễ rơi vào tình trạng tự tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc thiêng liêng nào cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

18. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

Mc 7, 31 - 37

Khi ở nước ngoài, có dịp gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ : "Sống ở nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất". Họ trả lời : "Khổ nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình. Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc".

Nghe và nói là hai cánh cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.

Nếu điếc và ngọng thể lý đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội.

Có nhiều thứ điếc.

Có thứ điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.

Có thứ điếc vì định kiến. Ðã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào những phần xấu.

Có thứ điếc vì bịt tai không muốn nghe. Ðây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc. Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của bản thân. Ðoạn tuyệt với mọi người.

Sau cùng, có thứ điếc thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa, mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, có nhiều thứ ngọng.

Có thứ ngọng do khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu ta.

Có thứ ngọng do ích kỷ. Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà không hiểu.

Có thứ ngọng do sợ sệt. Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.

Có thứ ngọng do lười biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.

Những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.

Có nhiều bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.

Hôm nay, Ðức Giê-su cũng đến nói với ta : "Ephata". Hãy mở ra.

Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.

Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con . Amen.

Gm. Giuse Ngô Quang Kiệt

19. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

Mc 7, 31 - 37

"Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được "

Có nhiều khi tôi tự hỏi : Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao ? Tôi lại nghĩ : Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.

Kinh Thánh Kitô Giáo của mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Ðến lúc ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.

Ðể tiến tới sự hiệp thông chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Ðồng thời chúng ta có thể nghe được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.

Như vậy, nếu chúng ta không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không biết tạ ơn.

Chúng ta có miệng và tai tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện không ? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ : " Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc". Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn là phương thế để dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.

Một hôm, đọc sách báo tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người Phụ Nữ đã có chồng 5 con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một Phụ Nữ khác nhập viện nằm gần Chị. Người Phụ Nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ Chị suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người Phụ Nữ mới vào sau nói với Chị "Này Chị ơi, chị phải biết là chị may mắn và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc Chị". Câu ấy làm cho Chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao nhiêu người quan tâm đến Chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm nuôi. Vậy mà Chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi Chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng Chị đọc được lá thư người bạn gởi cho mình. Nội dung bức thư:

" Bạn thân mến, cảm ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn thấy tôi. Ðôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin Chúa cho Chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như Chị thường thấy. Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của Chị sẽ phong phú hơn."

Chúng ta có đôi tai rất thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng con tim.

Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, trẻ thơ bơ vơ.

Chúng ta câm điếc khi chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này chúng ta phải cầu nguyện : "Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra ".

Không phải chúng ta chỉ nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa. Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người câm.

Ở bên Mỹ, muốn đoạt được giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Ðức, ít khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư. Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi. Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông Cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.

Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.

Hôm nay tôi chỉ mời anh chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ðồng thời chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.

Tôi xin anh chị em hãy nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực hiện. Ðây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc : "Lạy Chúa Vinh danh Chúa" và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Ðấy chính là dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói : Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi cảnh câm điếc.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lữơi cho những người không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Lạy Chúa xin cứ gởi con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ, đem nước cho những người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem áo quần cho những người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gửi con ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh. Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho những kẻ bị chà đạp, đem tự do cho những kiếp đoạ đày .Amen

Gm. Nguyễn Khảm

20. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

Mc 7, 31 - 37

Tình cờ tôi đọc được một lời nguyện cho người câm điếc như sau: " Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi xung, bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn...". Lời kinh này phần nào cho chúng ta thấy được nỗi khổ tâm của những người câm điếc. Bình thường, chúng ta vẫn nghĩ người mù khổ hơn người điếc, nên chúng ta dễ thông cảm với họ hơn. Nhưng theo Helen Keller, một người vừa bị mù vừa bị điếc, thì bà cho rằng điếc khổ hơn mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời đều bị khoá chặt lại đối với họ: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, không thể diễn tả tâm tư tình cảm của mình... và cảm thấy cô đơn chán nản (Minh hoạ lời Chúa, tập 3, trang 70-71). Hay nói một cách khác, những người bị khuyết tật nói chung và câm điếc nói riêng, thường bị mọi người coi thường, khinh rẻ. Họ hầu như bị tách ra khỏi đời sống của cộng đoàn.

Do đó, khi đọc lại câu chuyện Đức Giêsu chữa lành người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội, một lần nữa, cho chúng ta thấy Đức Giêsu đích thực là Đấng đến để đem lại tự do cho chúng ta, giúp chúng ta hội nhập với cộng đoàn. Hay nói như những người Do thái: " Người làm mọi sự thật tốt đẹp".

1. Nỗi bất hạnh của người câm điếc:

Để có thể thấy rõ hơn tâm tình của Đức Giêsu khi Ngài chữa lành cho một người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ chúng ta cần nhìn lại hoàn cảnh của anh ta. Trong tình trạng bị câm điếc, anh ta thật bất hạnh vì tai anh không hề một lần được nghe lời ru ngọt ngào của mẹ, và miệng anh cũng không thể thốt ra lời yêu thương với những người mà anh yêu thương nhất. Lòng anh có tâm sự gì cho dù là vui hay buồn, chuyện lớn hay chuyện nhỏ cũng không thể chia sẻ thành lời với bất cứ ai. Anh cũng không thể lắng nghe để làm vợi đi nỗi buồn của những người thân yêu. Hơn nữa theo quan niệm của nhiều người, thì những tật bệnh chính là hậu quả của tội lỗi. Nhất là hiện nay, anh đang sống ở miền Thập Tỉnh, nghĩa là vùng đất của dân ngoại, một dân tội lỗi và ô uế theo cách nhìn của người Do thái.

Do đó, một cách nào đó, anh còn bị coi là những kẻ tội lỗi. Mọi người đều coi thường và không muốn tiếp xúc với anh. Anh quả thật là người bất hạnh trong những người bất hạnh. Cuộc đời của anh tưởng chừng như đi vào con đường cùng. Anh đã được sinh ra trong câm lặng, và có thể sẽ chết đi trong cay đắng âm thầm. Suy nghĩ một chút như thế, chúng ta mới có thể phần nào nhận ra được lòng khao khát được " nói", được "nghe", nghĩa là được hội nhập vào cộng đoàn của anh.

Do đó, lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia: " Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ!... Chính Người sẽ đến cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được" đích thực là một niềm vui và đem lại cho từng người chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời. Đây là lời của niềm vui, và hy vọng vì nó được loan báo ngay lúc dân đang bị lưu đày. Chính trong bối cảnh đau thương đó, vị ngôn sứ đã báo trước cho dân một cảnh thanh bình vào thời của Đấng Thiên Sai: "Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước".

Tất cả những lời này giờ đây đã thực sự được thực hiện nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Đấng đến để đem lại sự giải thoát, phục hồi sự tự do, xoá đi mọi hận thù, chia rẽ và giúp con người hiệp thông với nhau như lời tác giả Thánh vịnh: " Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục,... Thiên Chúa che chở khách kiều cư".

2. Đức Giêsu, Đấng đem lại tự do cho con người:

Đọc tiếp Tin mừng, chúng ta thấy ngay khi thấy người ta dẫn đến cho Chúa người bị câm điếc, Đức Giêsu lập tức thấy được nỗi cô đơn của anh. Ngài đã không bỏ mặc anh, hay chờ anh năn nỉ, cầu xin. Trái lại, Ngài đã nắm lấy tay và dắt anh ra khỏi đám đông, Ngài còn động chạm đến con người của anh khi đặt ngón tay Ngài vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Và quả thực như nhận xét của những người Do thái lúc đó: " Người làm mọi sự thật tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe đựơc và người câm nói được". Ngài đã cho anh một cơ hội để anh hội nhập với cộng đoàn, để anh có cơ hội sống như một con người bình thường.

Đức Giêsu đã đến và phục hồi lại phẩm giá của từng người chúng ta bằng cuộc Vượt Qua của Ngài. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi người cho dù là nam hay nữ, giàu sang hay nghèo hèn, người trí thức hay thất học ..., tất cả đều có một giá trị tuyệt đối vô song, một giá trị mà cả thế giới cũng không đổi được (x. Mt 16, 26). Do đó thánh Giacôbê trong bài đọc hai nhắn bảo chúng ta: " Anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị". Chúng ta không được thiên vị, đánh giá người khác qua vẻ bên ngoài theo cách của những người không tin mà thánh Giacôbê đề cập đến: "Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: "xin mời ông ngồi chỗ danh dự nầy". Còn với người anh em nghèo khó thì anh em lại nói rằng: "Còn anh đứng đó", hoặc: "Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi". Và thánh nhân kết luận: "Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em sao?".

Qua một vài chia sẻ trên, chúng ta phần nào thấy được tình trạng khốn khổ của những người câm điếc. Họ không thể nói cũng không thể nghe. Hoàn cảnh của họ thật đáng thương. Tuy nhiên " Nhìn người lại nghĩ đến ta", mỗi người chúng ta đây, có thể không ai bị câm điếc về thể xác, nhưng chúng ta có thể đang bị câm điếc về tâm linh, khi không thể nói lời chân thật, không thể nói lời yêu thương, và cũng không thể lắng nghe lời Chúa và sự chỉ dạy của người khác.

Chúng ta cũng có thể trở thành câm điếc, khi sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình mà quên mất việc chia sẻ, lắng nghe những thao thức của tha nhân. Chúng ta sẽ trở nên câm điếc khi tự mình tách ra khỏi cộng đoàn bởi những tự ái cá nhân vô lối của chúng ta. Để khỏi rơi vào tình trạng câm điếc tâm linh như thế, giờ đây với cả tấm lòng thành, chúng ta cùng hiệp ý với trẻ Samuel và tông đồ Phêrô để thưa với Chúa: " Lạy Chúa xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời".

Đức Giêsu đã tỏ rõ lòng nhân hậu của Ngài khi chữa lành cho người bị câm điếc để anh được hội nhập với cộng đoàn. Giờ đây, mỗi người chúng ta cũng hãy thành tâm, mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ, để Ngài chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên những con người mạnh khoẻ trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.

Câu chuyện minh hoạ

Tạo cơ hội để mọi người được nói, được chia sẻ: bổn phận sửa dạy con cái: câu chuyện một thiếu niên 14 tuổi giết mẹ và tự tử ở Trung Quốc (bồi dưỡng tinh thần 5).

- Đồng hành với mọi người
- Cho mọi người một cơ hội để nói
- Sẵn sàng lắng nghe chúng ta: Giakêu, người mù Bartimê trên đường đi Giêrikhô
- Giúp cho chúng ta được "nói rõ ràng"
- Giúp chúng ta nghe Lời Chúa
- "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Đức Giêsu chữa lành người câm và điếc để đưa anh trở lại hội nhập với cộng đoàn.
- Chúng ta cần biết "lắng nghe": Lời Chúa;Tha nhân: chồng, vợ, cha mẹ, con cái, những người đang sống quanh ta. Nghe để hiểu và thông cảm.
- Cộng đoàn hiệp thông, mỗi người hiểu rõ nhau hơn.
- Một lối sống ích kỷ chỉ nghĩ đến mình.
- Đánh giá người khác qua vẻ bên ngoài
- Một số người không có tiếng nói và không được lắng nghe trong cộng đoàn.
- Không dám lên tiếng bênh vực sự thật và loan báo Tin mừng
- Sự bất an trong tâm hồn

Người câm là người không nói được, hoặc là chỉ phát ra những âm thanh vô nghĩa. Như vậy, nếu những khi cần nói, chúng ta không nói, hoặc nói không đúng, lúc đó, chúng ta cũng là những người câm.

Người điếc là người không nghe được. Do đó, bất cứ ai không có khả năng lắng nghe, thì cho dù âm thanh có lọt vào tai cũng coi như bị điếc.

Không thể nói, không thể nghe là người không thể hiệp thông với cộng đoàn, tự tách mình ra khỏi cộng đoàn. Vậy, nếu ai chỉ nghĩ đến mình, không biết chia sẻ với anh chị em mình cũng là những người câm và điếc.

Chúng ta những người bình thường, có bao giờ chúng ta cảm thấy hạnh phúc vì chúng ta thấy được, nghe được, nói được không? Hay là chúng ta cứ mãi loanh quanh với biết bao những lo toan về tiền tài, danh vọng, cùng với những đam mê bất chính để rồi cứ mãi " than trời trách đất".
Tự do là điều quý nhất của con người. Tự do cho thấy con người có giá trị và nhân phẩm. Tự do đòi trách nhiệm.

Sau khi nguyên tổ phạm tội, con người trở nên nô lệ của tội lỗi, mất tự do.

Chúa Giêsu đến phục hồi tự do cho con người khi Ngài cho con người có quyền nói và nghe được. Mỗi người đều có giá trị như nhau trước mặt Thiên Chúa (bđ2)

Ngài thực hiện điều này nhờ việc Nhập Thể của Ngài. Ngài dùng chính thân xác của Ngài để đem lại ơn cứu độ: đặt ngón tay vào tai, nhổ nước miếng vào lưỡi, thân xác chịu đóng đinh ... Đức Kitô đã dùng những phương tiện hữu hình để thông ban ơn thánh. Đây là điều mà các bí tích thực hiện. Thông qua những dấu hữu hình: nước, dầu, bánh, rượu... bí tích đem lại cho ta chính ân sủng của Đức Kitô Phục Sinh. Đồng thời, điều này cho thấy ơn cứu độ mà Đức Kitô đem đến rất gần chúng ta. Đức Giêsu đang đồng hành với ta (Dt 4, 15).

Như thế, với Đức Giêsu, triều đại của Đấng Thiên Sai mà ngôn sứ Isaia loan báo đã trở thành hiện thực " Mọi sự, Người đã làm cách hoàn hảo". Điều này gợi nhớ lại trình thuật Sáng tạo. Sau khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy "mọi sự đều tốt đẹp". Đức Giêsu là Đấng tái tạo.

Với Đức Giêsu, ơn cứu độ không còn giới hạn ở dân Do thái, mà mở rộng ra cho hết mọi người. Điều này được thánh Maccô chứng minh qua phép lạ được thực hiện ở vùng Thập tỉnh, bên Đông sông Giocđan, miền đất dân ngoại.

Theo dõi tin tức qua báo chí, và các phương tiện truyền thanh, truyền hình chúng ta thấy hình như thế giới không có lấy một ngày yên ổn. Đặc biệt là cuộc xung đột giữa Israel và Palestin và gần đây là cuộc nội chiến tại Libêria. Biết bao cuộc hội nghị, đàm phán đã diễn ra. Thế nhưng, tiếng súng, tiếng bom đạn vẫn tiếp tục nổ lúc chổ này, lúc chổ khác, khiến cho không biết bao nhiêu gia đình phải ly tán, vợ mất chồng, con mất cha, cha mẹ mất con cái.

Nhìn lại cuộc chiến giữa Israel và Palestin, chúng ta thấy đã có nhiều cuộc trao đổi, hoà giải để mong lập lại hoà bình ở vùng này, nhưng cho đến nay, kết quả cũng chưa có gì khả quan. Điều đó, cho thấy, tuy ngồi chung một bàn đàm phán, nhưng cả hai bên đều không thể nghe nhau nói, và cũng không thể hiểu nhau. Họ giống như hai người câm điếc nói với nhau.

Do đó, họ đã không thể tìm ra một giải pháp hoà bình cho cả hai bên. Không thể nghe và không thể nói đúng, như thế phải chăng những người này, một cách nào đó, cũng đang ở trong tình trạng câm và điếc? Chính vì con người đang trở nên câm và điếc đối với nhau, nên vẫn còn đó những xung đột, bất hoà.

Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

21. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

Mc 7, 31 - 37

1. Các thứ bệnh điếc và ngọng: thể chất, tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân, xã hội và giáo hội

Trong xã hội con người, có rất nhiều người bị bệnh: bệnh thể chất, bệnh tinh thần, và bệnh tâm linh. Đó là nói về bệnh cá nhân. Ngoài ra, một xã hội cũng có thể có nhiều chứng bệnh: bệnh thể lý như dịch tễ, bệnh tinh thần như sự bất công, áp bức, các tệ nạn xã hội (đĩ điếm, ma túy), bệnh tâm linh như vô tín, đạo đức xuống dốc, tình trạng tội lỗi... Một cộng đoàn tôn giáo có thể bị những bệnh như: cơ cấu làm tê liệt thần khí, hình thức bên ngoài làm mất đi tinh thần bên trong, quyền bính bị lạm dụng, chia rẽ không hiệp nhất, trên dưới không nghe nhau, khô khan nguội lạnh, thỏa hiệp với kẻ ác...

Đức Giêsu đến trần gian để chữa chủ yếu những bệnh tinh thần và tâm linh của con người, của xã hội và giáo hội, nhưng Ngài cũng chữa cả những bệnh thể lý như dấu chỉ khả năng chữa lành tinh thần và tâm linh. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ngài chữa lành « một người vừa điếc vừa ngọng» thể lý, là dấu chỉ của loại bệnh «vừa điếc vừa ngọng» tinh thần hay tâm linh. Điếc là không nghe được, hoặc không nghe rõ. Ngọng là không nói được, hoặc nói không rõ, khó nghe. Số người điếc, ngọng, câm thể lý chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ trong xã hội. Nhưng số người điếc, ngọng, câm về tinh thần và tâm linh chiếm một tỉ lệ rất cao. Thậm chí có cả bệnh «câm điếc xã hội», nghĩa là có những xã hội bị điếc, ngọng và câm nữa. Nếu Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay có thể chữa lành bệnh điếc và ngọng thể lý, thì Ngài còn có thể chữa lành một cách hữu hiệu hơn nữa bệnh điếc và ngọng về tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân cũng như trong xã hội và giáo hội.

2. Điếc, ngọng về tinh thần và tâm linh

Điếc và ngọng về thể chất thì ai cũng biết, thiết tưởng chúng ta không cần đề cập tới trong khuôn khổ nhỏ hẹp của bài chia sẻ Tin Mừng này. Chúng ta cần bàn tới bệnh điếc và ngọng về tinh thần và tâm linh, mà ai trong chúng ta cũng bị không nhiều thì ít.

Nhiều người thính và tinh tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực, địa vị, nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều hơn. Nhiều người nói năng rất hùng biện về kiến thức, triết lý, khoa học, về đủ mọi đề tài... nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu, mắc cỡ khi phải nói lên điều hay lẽ thật, những lời chân thành yêu thương, những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.

3. Điếc và ngọng trước chân lý

Nhiều người đã trở thành điếc trước những quan niệm mới, những cách nhìn mới hay những cách diễn tả mới về chân lý. Vì họ luôn luôn cho rằng những quan niệm, cách nhìn hay cách diễn tả chân lý mà họ lãnh hội được trước đây chính là chân lý. Mà đã là chân lý thì không bao giờ thay đổi. Thực ra, chân lý thì bất biến, muôn đời không thay đổi, nhưng cách hiểu, sự lãnh hội và cách diễn tả chân lý của con người thì luôn luôn thay đổi tùy theo khả năng nhận thức của họ. Cũng như cơ cấu của vật chất, từ ngàn xưa đến nay không hề thay đổi, nhưng quan niệm, cách nhìn, cách mô tả của con người về cơ cấu vật chất luôn luôn thay đổi: càng về sau, con người càng quan niệm và diễn tả đúng hơn.

Một khi đã coi một quan niệm, cách nhìn hay cách diễn tả nào đó là chân lý bất biến, con người sẽ không còn khả năng chấp nhận những cách diễn tả khác phù hợp với thời đại mới, với nhận thức mới của con người thời đại. Ta đã thấy gương về sự cố chấp này trong Kinh Thánh: Thiên Chúa thì bất biến, nhưng cách diễn tả Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước rất khác nhau. Các kinh sư Do-thái chính vì cố chấp vào cách diễn tả cũ nên họ đã không chấp nhận được Đức Giêsu, với quan niệm mới, cách nhìn mới, cách diễn tả mới mẻ về Thiên Chúa của Ngài. Vì thế, họ đã nhắm mắt bịt tai trước lời của Ngài: lời Ngài có vẻ như không phù hợp với quan niệm rất hạn hẹp của họ. Tâm trí họ giống như một tách trà đã đầy nước, không thể tiếp nhận thêm một giọt nước nào nữa, nếu cứ rót vào, nước trà sẽ tràn ra ngoài.

Một khi đã điếc trước cách diễn tả mới về chân lý, họ cũng trở thành câm hay ngọng đối với cách diễn tả ấy.

4. Điếc và ngọng trong xã hội và tôn giáo

Trong những xã hội hay tôn giáo độc tài, chỉ có một bè đảng, một phe nhóm hay một giáo phái nào đó được ưu đãi và toàn quyền hành động, thì người dân luôn luôn phải chịu cảnh bất công áp bức. Lúc đó, người dân sẽ trở thành những kẻ điếc và ngọng. Điếc vì họ bị bọn cầm quyền bưng bít không cho nghe những thông tin nào bất lợi cho chúng, khiến cho người dân trở nên bức xúc và đấu tranh. Ngọng hay câm vì họ không thể nói lên được những uất ức, những bực bội, những tư tưởng, những ước muốn của họ. Đương nhiên bị điếc và ngọng thì hết sức bực bội, khổ não, và không hạnh phúc.

Trong những xã hội hay tôn giáo ấy, còn một loại điếc và ngọng khác, đó là bệnh điếc và ngọng của những người theo lý tưởng ngôn sứ. Đó là một lý tưởng cao đẹp tuyệt vời! Lý tưởng này rất cần thiết, đặc biệt trong những xã hội hay tôn giáo đang chịu đầy dẫy bất công áp bức. Lý tưởng đó là « loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải phóng những kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng mắt, trả lại công lý cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Sách Châm ngôn diễn tả một công việc quan trọng của những người mang lý tưởng đó: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Nhưng có rất nhiều người mang danh theo lý tưởng ngôn sứ này, đáng lẽ họ phải nói thay cho người câm hay ngọng, nhưng tiếc thay chính họ dường như cũng bị câm và ngọng luôn! Thay vì sáng mắt thính tai để nghe và thấy tình cảnh khốn cùng của những người chung quanh mình hầu lên tiếng thay cho họ, thì họ cố tình giả điếc làm ngơ, bưng tai bịt mắt để khỏi thấy, hầu có thể câm miệng làm thinh cho yên thân, để «cố đấm ăn xôi» hay «ngậm miệng ăn tiền»!

5. «Épphatha», hãy mở ra!

Tuy không điếc và ngọng thể lý, nhưng rất có thể chúng ta đang bị điếc và ngọng về tinh thần hay tâm linh. Điếc và ngọng thể lý thì không phải chịu trách nhiệm về căn bệnh. Nhưng điếc hay ngọng về tinh thần hay tâm linh, thì chúng ta sẽ bị quy kết trách nhiệm trước Thiên Chúa và lương tâm của mình. Vì thế, xét về mặt tâm linh, điếc và ngọng tinh thần hay tâm linh nguy hiểm hơn nhiều. Bị căn bệnh tâm linh này, chúng ta cần chữa cho khỏi. Dù là điếc, ngọng hay câm loại nào, Đức Giêsu cũng có thể chữa lành được, miễn là chúng ta tin vào quyền năng của Ngài và quyết tâm cộng tác với Ngài. Chỉ cần Ngài rờ vào cái tai tâm linh và cái miệng tâm linh của ta và truyền cho chúng: « Épphatha, hãy mở ra!» là bệnh điếc, ngọng, câm tâm linh của ta sẽ được chữa lành. Điều quan trọng là chúng ta phải xác định được mình đang thật sự bị điếc và ngọng về tâm linh thì Ngài mới chữa lành ta được! Nếu bị bệnh mà mình lại cứ nói mình chẳng bệnh gì cả, thì Chúa có quyền năng đến đâu Ngài cũng đành bó tay. Hãy nghe Đức Giêsu nói với người Pharisêu: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).

Cầu nguyện

Lạy Cha, con cảm thấy con đang bị điếc và câm - hay ít ra là đang giả điếc và giả câm - trước lời mời gọi của Cha. Cha mời con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ, đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói dùm họ, tranh đấu cho họ... Nhưng con đang giả mù giả điếc để có thể câm lặng... hầu được an thân, hầu khỏi bị mất mát những gì mà kẻ áp bức đang ban cho con! Xin Cha hãy chữa lành bệnh ấy cho con!

John Nguyễn

22. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN B

Mc 7, 31 - 37

Thường người ta không đánh giá được sự vật mà họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Nếu ta đặt mình vào địa vị người câm và điếc trong phúc âm hôm nay, ta mới đánh giá được cơ quan tai và lưỡi. Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên cái lưỡi và tai, là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe, và nghe người khác nói. Người điếc trong Phúc âm hôm nay phải cảm thấy ước muốn được chữa lành nên người ta mới xin Chúa chữa anh ta. Phúc âm ghi lại 'Chúa đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt lên trời, Người rên một tiếng và bảo: Ephrata, nghĩa là "hãy mở ra". Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc 7: 33-34).

Có bao giờ ta cảm đội Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt nhất để cảm đội ơn Chúa về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục đích của Đấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt in tức, thông đạt sự thật và sự thiện hảo. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ không phải để khuyến khích người khác nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích của Đấng tạo dựng đôi tai. Có bao giờ khi xưng tội, ta xưng tội đã nghe người khác nói hành nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt không?

Hơn nữa miệng lưỡi và lỗ tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để thông đạt lời Chúa. Khi lãnh phép rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong Phúc âm hôm nay : Hãy mở ra. Đây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận lời Chúa, và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Đức tin mở tai ta cách thiêng liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Phúc âm. Tuy nhiên nếu không có đức tin, ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nhưng chỉ có những người mở rộng tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Ta biết lắng nghe là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn lắng nghe với cả tâm hồn. Tai ta có thể nghe câu chuyện Thánh kinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể lắng nghe tiếng Chúa.

Tóm lại mục đích của việc tạo dựng giác quan là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Chúa. Chúa cho ta cái tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung hô ngợi khen Chúa. Đó chính là việc người câm điếc đã làm sau khi được Chúa chữa khỏi : Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được (Mc 7: 37).

Hôm nay ta hãy cầu xin Chúa cho ta biết sống trong tâm tình biết ơn : biết ơn Chúa cho ta có thể nói được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh, trong bài giảng. Nghe lời Chúa rồi ta cần đáp trả bằng cách tuyên xưng lời Chúa, bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đạo hạnh. Lời Chúa không phải là tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Trong một buổi học hỏi Thánh kinh, ông cha hỏi :

* Sao Chúa nhật rồi bài Phúc âm nói về gì vậy?
Mọi người thinh lặng: người thì bóp trán, người thì gãi tai, người khác gãi đầu. Cuối cùng có một ông giơ tay phát biểu.
- Dạ thưa cha con nhớ rồi.
- Ông nhớ sao ?
- Dạ thưa cha, con nhớ cha đọc : Đó là lời Chúa.

Lm Trần Bình Trọng, USA

23. HÃY MỞ RA

Mc 7, 31 - 37

Cách đây không lâu trên đài truyền hình người ta có nói tới một khám phá mới để nuôi thơ nhi sinh ra còn thiếu tháng bằng chính hơi ấm của người mẹ, bằng sự đụng chạm da thịt của người mẹ với đứa con thay vì nuôi trong lồng kiếng với các dụng cụ khoa học như từ trưóc tới nay. Sau thời gian thử nghiệm, phương pháp này đã mang lại những hiệu quả tốt đẹp. Em bé đã phát triển bình thường.

Khoa học tiến bộ theo năm tháng, nhưng qua bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Kitô đã dùng đường lối này để chữa bệnh cho dân chúng từ ngàn xưa. Ngài đã lấy ngón tay đặt vào lỗ tai anh và nhổ nước miếng của mình để bôi vào lưỡi anh. Hành động này nói lên rằng: Ngài đã truyền sinh lực của Ngài cho anh để không những chỉ mở lưỡi và tai nhưng còn mở tất cả con người anh đang bị trói buộc bởi thần dữ, nhờ đó anh có thể nghe, đón nhận, hiểu biết và thực thi lời giáo huấn của Ngài.

Nhìn vào thời đại hiện nay, chúng ta thấy biết bao người đang phải đương đầu với những cảnh sống cô đơn. Tại sao thế! Tại vì họ muốn câm, muốn điếc đối với những người chung quanh, hay có khi họ không muốn hiểu, không muốn liên đới tới thế giới bên ngoài để rồi đóng kín mình trong vỏ ốc cứng của cá nhân và ích kỷ. Chính mình đã làm cho mình trở nên câm điếc mà không hay. Con người chỉ có thể nghe rõ và hiểu rõ, cũng như nói ra những điều hay, lời tốt, khi họ biết xử dụng các giác quan của mình với một trái tim mở rộng và chân thành.

Một bà mẹ nói với con: „Sao hôm nay con bị nặng tai à!- Con đã không hiểu mẹ vì con đã không biết lắng nghe mẹ bằng cả con tim của con."

Tất cả chúng ta sẽ trở thành những người câm điếc nếu chúng ta không biết thành tâm đón nhận Tin Mừng để đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng luôn cần được sự đụng chạm của Chúa và lời tháo gỡ thần lực của Ngài: „Hãy mở ra", để chúng ta không còn bị ràng buộc bởi những sự sợ hãi, những điều xấu lôi kéo. Nhờ sức mạnh mới chúng ta có thể nghe, hiểu được và hăng say rao truyền chân lý của Tin Mừng, không còn phải sống trong tình trạng câm điếc nữa.

Lạy Chúa xin mở miệng lưỡi, mở trái tim con cho con biết ca khen tình thương của Chúa và con hiểu và cảm thông với tha nhân. Xin Chúa hãy cho con luôn cảm nhận được ý nghĩa sâu xa của lời:  "Hãy mở ra".

Sr. Margareta Maria Hiền
vietcatholic.org
Post A Comment
  • Blogger Comment using Blogger
  • Facebook Comment using Facebook
  • Disqus Comment using Disqus

No comments :